Thursday, November 26, 2020

Vong01 - Chuẩn bị ngày Chúa đến bằng bản tính yêu thương của ta




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 1 Mùa Vọng

(29-11-2020)


Chuẩn bị ngày Chúa đến
bằng bản tính yêu thương của ta




ĐỌC LỜI CHÚA

  Is 63,16b-17; 64,1.3b-8: (4) Ngài đón gặp kẻ công chính vì họ sống theo đường lối Ngài chỉ dạy. Và Ngài phẫn nộ vì tội lỗi chúng con. (5) Tất cả chúng con đã trở nên như người nhiễm uế, mọi việc lành của chúng con khác nào chiếc áo dơ. Tội ác chúng con đã phạm, tựa cơn gió, cuốn chúng con đi.

  1Cr 1,3-9: (6) Lời chứng về Đức Kitô đã ăn sâu vững chắc vào lòng trí anh em, (7) khiến anh em không thiếu một ân huệ nào, trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mặc khải vinh quang của Người.


  TIN MỪNG: Mc 13,33-37

Phải tỉnh thức và sẵn sàng

(33) «Anh em phải coi chừng, phải tỉnh thức, vì anh em không biết khi nào thời ấy đến. (34) Cũng như người kia trẩy phương xa, để nhà lại, trao quyền cho các đầy tớ của mình, chỉ định cho mỗi người một việc, và ra lệnh cho người giữ cửa phải canh thức. (35) Vậy anh em phải canh thức, vì anh em không biết khi nào chủ nhà đến: Lúc chập tối hay nửa đêm, lúc gà gáy hay tảng sáng. (36) Anh em phải canh thức, kẻo lỡ ra ông chủ đến bất thần, bắt gặp anh em đang ngủ. (37) Điều Thầy nói với anh em đây, Thầy cũng nói với hết thảy mọi người là: phải canh thức!»





CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Mua bảo hiểm để đề phòng rủi ro bất ngờ có phải là khôn ngoan không? Ta có bảo hiểm cho sự sống vĩnh cửu đời sau không? Bảo hiểm tránh rủi ro đời này có quan trọng bằng bảo hiểm tránh rủi ro đời sau không?
2. Ngày Chúa đến cần được hiểu thế nào? Ngày ấy có bất ngờ không? Nếu biết ngày ấy sẽ đến bất ngờ thì ta phải chuẩn bị thế nào cho khôn ngoan?
3. Cách chuẩn bị ngày Chúa đến cách khôn ngoan nhất là gì? Có cách chuẩn bị nào vừa thường hằng suốt cuộc đời ta, vừa  lại không làm ta bị căng thẳng, hồi hộp, vì Chúa đến bất kỳ lúc nào và cách nào thì ta vẫn luôn sẵn sàng không?


Suy tư gợi ý:

1.  Sự khôn ngoan đòi hỏi phải đề phòng rủi ro đến bất ngờ

Hiện nay, các công ty bảo hiểm làm ăn rất phát đạt, vì càng ngày người ta càng cảm thấy cần thiết phải đề phòng những rủi ro bất ngờ xảy đến: bệnh tật, tai nạn, chết chóc… Có bảo hiểm, khi những rủi ro xảy đến, họ không đến nỗi bị thiệt hại vì sẽ được đền bù. Điều khiến người ta lưu tâm và phải quyết định bảo hiểm đó là tính bất ngờ của sự rủi ro. Vì nếu người ta biết trước hay dự đoán trước được chính xác ngày giờ xảy đến và xảy đến thế nào, thì gần đến ngày giờ ấy, người ta mới phải chuẩn bị đề phòng. Nhưng nếu nó xảy ra bất ngờ, và có thể xảy đến bất kỳ lúc nào, thì người ta phải luôn luôn đề phòng, và đề phòng không ngừng. Và lỡ có lúc nào không thể chuẩn bị hay đề phòng, thì lúc đó người ta không an tâm. Chính vì thế, người ý thức được tính bất ngờ của những rủi ro thì tìm cách mua bảo hiểm càng sớm càng tốt, để tâm hồn họ luôn luôn được bình an.


Những rủi ro, và thiệt hại từ rủi ro, có tính nhất thời và có ảnh hưởng nhất thời thì con người biết lo xa, đề phòng. Nhưng thật buồn cười và phi lý thay, những rủi ro và thiệt hại to lớn hơn vô cùng, có ảnh hưởng vĩnh viễn, đời đời, thì rất nhiều người lại chẳng thèm quan tâm, chẳng đề phòng hay chuẩn bị gì cả. Lý do rất đơn giản là vì họ không nghĩ đến, hay chưa đủ tin rằng có một cuộc sống vĩnh cửu sau cái chết, và cuộc sống đó hạnh phúc hay đau khổ tùy thuộc vào đời sống ngắn ngủi hiện tại. Họ có thể tin rằng nếu công cuộc làm ăn mà họ đang tiến hành bị thất bại, thì họ sẽ lâm vào thế kẹt khoảng 10 năm, vì thế họ phải cố gắng hết sức để thành công trong cuộc làm ăn này. Nhưng họ không quan tâm bao nhiêu đến sự thành bại của cả cuộc đời họ, đến cái hậu quả hết sức bi thảm và kéo dài vô tận nếu đời sống tâm linh của họ ở đời này bị thất bại.




2.  Tính bất ngờ của ngày Chúa đến

Điều quan trọng mà chúng ta cần phải lưu tâm đó là tính bất ngờ của ngày Chúa đến. «Ngày Chúa đến» ở đây có thể hiểu cách thực tế và cụ thể nhất là ngày Chúa gọi ta về với Ngài, tức ngày tận cùng của đời ta. Nếu ngày đó được ta chuẩn bị chu đáo, thì nó không có gì đáng sợ hay khủng khiếp đối với ta, vì đó là ngày mà ta bước vào một cuộc sống mới vĩnh cửu đầy hạnh phúc. Nhưng nếu ngày đó không được chuẩn bị tốt đẹp nên chúng ta phải ra trước tòa Chúa với một tình trạng tội lỗi, nghĩa là tâm hồn thiếu vắng tình yêu, đầy tính vị kỷ, thì ngày ấy đến với ta có thể sẽ rất khủng khiếp. Vì ta hoàn toàn chưa sẵn sàng để đối diện với sự phán xét công thẳng của Ngài. Ngày Chúa đến cũng có thể hiểu theo nghĩa lớn rộng hơn, là ngày tận cùng của toàn nhân loại, ngày Đức Giêsu trở lại để phán xét toàn nhân loại. 

Dù hiểu theo nghĩa nào, ngày Chúa đến vẫn là ngày bất ngờ: bất ngờ chẳng những về thời gian mà còn về cách thức nữa. Người ta chẳng những không ai biết được mình sẽ chết ngày nào giờ nào, mà ngay cả chết cách nào cũng không ai chắc chắn được. Người chết trên giường bệnh, kẻ chết ngoài đường vì tai nạn xe cộ, người chết khi đang làm việc, kẻ chết khi đang nghỉ ngơi, người chết trong tình trạng sẵn sàng ra đi, kẻ chết không nhắm mắt vì còn tiếc nuối một điều gì, người chết trong hy vọng một số phận vĩnh cửu tốt đẹp, kẻ chết trong lo sợ vì không biết số phận đời sau mình ra sao… Và cũng chẳng ai biết được ngày Chúa đến phán xét toàn nhân loại sẽ xảy ra thế nào, rất có thể khác hẳn với những gì người ta dự kiến

Kinh nghiệm khi Đức Giêsu đến lần thứ nhất cho thấy: mặc dù đã được các ngôn sứ tiên báo từ mấy trăm năm trước, nhưng khi Ngài đến thì chẳng mấy ai biết, vì họ không ngờ được Ngài lại đến theo cách ấy, hoàn toàn ngoài dự kiến của họ. Giới lãnh đạo tôn giáo thời ấy có ngờ trước được rằng chính họ lại là chủ mưu trong việc xúc phạm và giết chết Ngài bao giờ đâu? Họ luôn nghĩ rằng họ là người công chính nên ai phản đối họ, lên án họ thì đều là kẻ phá hoại tôn giáo và đáng giết chết! Thế mà Đức Giêsu lại là người phản đối và lên án họ nặng nề nhất! Vì cố chấp vào thành kiến của mình, nên con người thường không học được những bài học từ kinh nghiệm lịch sử!

Chính vì tính bất ngờ của cái chết mà người khôn ngoan luôn luôn phải chuẩn bị sẵn sàng để có thể ra trước tòa Chúa bất kỳ lúc nào, dẫu Ngài đến dưới bất kỳ hình thức nào thường là không ngờ trước được! Phải chuẩn bị cách nào để bất kỳ lúc nào Chúa gọi, ta cũng ở trong tình trạng đẹp lòng Thiên Chúa, nghĩa là tâm hồn ta luôn tràn ngập tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Chuẩn bị như thế chính là sống thái độ «tỉnh thức» mà Đức Giêsu đề nghị trong bài Tin Mừng này.




3.  Tỉnh thức nhưng lại phải hoàn toàn an tâm

Nếu chúng ta sống trong tâm trạng hồi hộp, lo âu đón chờ Chúa đến, thì đó không phải là cách tỉnh thức mà Đức Giêsu muốn chúng ta có. Tâm trạng hồi hộp, âu lo, sợ sệt là điều bất lợi cho tâm lý và thần kinh của ta. Ngài muốn ta tỉnh thức nhưng đồng thời lại hoàn toàn an tâm, không phải lo âu hồi hộp chút nào. Ngài muốn ta chuẩn bị trong tâm trạng bình an, vui tươi, thoải mái và hạnh phúc. Muốn chuẩn bị thế, ta cần củng cố tình yêu trong lòng chúng ta. 

Một người sống trong tâm trạng yêu thương –yêu Thiên Chúa và thương mọi người– chắc chắn là một người đẹp lòng Thiên Chúa. Nếu yêu thương đã trở thành bản tính của ta, thì ta không thể sống mà không yêu thương. Dù yêu thương là tình trạng tâm hồn hay được thể hiện thành hành động, nếu yêu thương đã trở thành bản tính của ta, thì ta không thể làm bất kỳ việc gì mà không phải do yêu thương. Biến yêu thương trở thành bản tính của ta, đó là chuẩn bị ngày Chúa đến cách tốt nhất, hoàn hảo nhất. Lúc ấy yêu thương không còn là một hành động nhất thời khi thì có lúc thì không, mà là bản tính hay tâm trạng thường hằng của ta. Tất cả mọi hơi thở, mọi cử động, mọi tư tưởng, lời nói và việc làm của ta, dù là vô tình hay hữu ý, đều thấm nhuần tình thương. Tình thương phải là phản xạ tự nhiên trong tất cả mọi sinh hoạt của đời sống ta. Người có bản tính yêu thương thì nói lời yêu thương hay hành động yêu thương còn dễ dàng hơn là nói lời khó nghe hay hành động vị kỷ.

Muốn có được bản tính yêu thương như thế, trước tiên ta phải giác ngộ thâm sâu rằng tha nhân chính là bản thân nối dài của ta, hay nói cách khác, tha nhân chính là «cái tôi khác» của ta. Bất cứ điều gì ta làm cho tha nhân cũng là làm cho chính ta, và cũng là làm cho chính Thiên Chúa. Bất kỳ điều tốt đẹp nào ta làm cho tha nhân thì sự tốt đẹp ấy cũng trở về với chính ta. Và bất kỳ điều xấu ác nào ta làm cho tha nhân thì sự xấu ác ấy sớm muộn gì cũng trở về với chính ta. Vì toàn thể nhân loại chỉ là một «cái tôi» hay một thân thể duy nhất, trong đó Đức Giêsu là đầu, còn tất cả mọi người đều là chi thể (x. 1Cr 12,12-26). Cái tay mà làm cho con mắt bị mù, thì rồi cái tay sẽ bị mất hẳn năng lực của mình, chẳng còn làm được nhiều việc như xưa nữa. 

Giác ngộ được như thế rồi, ta còn phải luyện tập để sống phù hợp với sự giác ngộ ấy. Lâu dần, sự luyện tập trở thành thói quen, và thói quen được duy trì sẽ trở thành bản tính. Bản tính sẽ chi phối toàn bộ con người ta, từ quan niệm, tư tưởng, đến lời nói và hành động. Một người có bản tính là yêu thương như thế thì trở nên giống Thiên Chúa. Đó chính là thánh thiện, là đạo đức đúng nghĩa nhất. Và một khi ta đã đạt được bản tính yêu thương đó, thì cả cuộc đời ta sẽ chẳng còn cần phải chuẩn bị chút nào cho ngày Chúa đến nữa, chính bản tính yêu thương của ta là sự chuẩn bị tốt đẹp nhất, chu đáo nhất cho cái ngày trọng đại ấy. Chuẩn bị như thế, chẳng bao giờ ta phải sống trong hồi hộp lo âu cả. Tâm hồn ta sẽ luôn luôn bình an và hạnh phúc.





CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Đức Giêsu yêu cầu con phải tỉnh thức để khi Ngài đến thì con lúc nào cũng sẵn sàng trong tình trạng tốt đẹp. Nhưng lúc nào cũng tỉnh thức thì sẽ làm con dễ mệt mỏi và căng thẳng. Con nghĩ ra một cách tỉnh thức mà không bị mệt mỏi, đó là làm sao để bản tính của con giống như bản tính của Cha, đó là bản tính yêu thương. Nghĩa là yêu thương không chỉ còn là những hành động nhất thời lúc có lúc không, mà là một tâm trạng, một thái độ thường hằng in sâu trong bản chất của con. Chuẩn bị một lần thay cho tất cả, thì con sẽ chẳng phải sống trong tình trạng căng thẳng của sự tỉnh thức chuẩn bị. Và đó chính là cách tỉnh thức tốt nhất. Xin Cha giúp con chuẩn bị ngày Ngài đến theo cách ấy.

Nguyễn Chính Kết

 


Tuesday, November 17, 2020

TN34b - Thiên Chúa phán xét theo tiêu chuẩn duy nhất: tình yêu đối với tha nhân




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 34 Thường Niên
Lễ Chúa Kitô Vua

(22-11-2020)

Bài đào sâu


Thiên Chúa phán xét theo tiêu chuẩn duy nhất: 
tình yêu đối với tha nhân



  TIN MỪNG: Mt 25, 31-46

Cuộc Phán Xét Chung




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Ngày phán xét, Vua Vũ Trụ sẽ phán xét con người dựa trên tiêu chuẩn nào? Ngài đã báo trước tiêu chuẩn ấy trong Tin Mừng chưa?
2. Ngài chỉ phán xét theo tiêu chuẩn duy nhất ấy thì có hợp lý không? Ta phải sống thế nào để trở nên công chính trong ngày phán xét ấy?

Suy tư gợi ý:

1. Phải tôn vinh Đức Giêsu là Vua của bản thân ta trước đã

Chúng ta tôn vinh Đức Giêsu là Vua Vũ Trụ, điều đó thật chính đáng. Nhưng nếu Ngài chỉ là Vua vũ trụ, chứ không phải là vua chính bản thân ta, nghĩa là vua của bản thân ta vẫn luôn luôn là «cái tôi» của ta, là những tham vọng của ta, thì việc tôn vinh ấy ích lợi gì? Ngài muốn được thật sự làm Vua của lòng ta, hơn là muốn ta tôn vinh, thờ phượng Ngài như là Chúa Tể của những gì không phải là ta. Chỉ khi nào Ngài thật sự là Vua của lòng ta, thì việc ta tôn vinh Ngài là Chúa Tể vũ trụ mới có ý nghĩa. Chỉ khi ấy, bản thân ta mới trở thành Nước Trời: «Nước Trời ở trong anh em» (Lc 17,21). Chính bản thân mỗi người có trở thành Nước Trời, thì gia đình, đoàn thể, Giáo Hội và thế giới mới trở thành Nước Trời được. Vậy, để xây dựng Nước Trời, ta phải bắt đầu từ chính bản thân ta đã, tương tự như lộ trình mà Khổng Tử đã đề ra: «tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ». 

Vậy, điều trước tiên ta phải làm là nhận Đức Giêsu là Vua của bản thân mình đã. Nghĩa là trong mọi tình huống cuộc đời, ta phải coi Ngài quan trọng hơn chính bản thân và tất cả mọi thứ khác, thánh ý của Ngài quan trọng hơn ý riêng của ta hay của bất kỳ ai, nghĩa là hoàn toàn quy phục Ngài, tuân theo thánh ý Ngài được biểu lộ qua những đòi hỏi của tình yêu trong lòng ta. 

bản chất của Ngài là tình yêu, nên nhận Ngài làm Vua của lòng mình, trong thực tế là luôn luôn làm theo đòi hỏi của tình yêu trong lòng mình. Đó cũng chính là nội dung giới luật yêu thương của Ngài, và cũng là tiêu chuẩn chính yếu nhất và duy nhất để vào được Nước của Ngài. Làm sao ta vào được Nước của Ngài khi ta chưa nhận Ngài là Vua của bản thân ta, khi tình yêu đối với Ngài chưa thật sự thống trị lòng ta?



2.  Ngày phán xét, Thiên Chúa phán xét theo tiêu chuẩn nào?

Bài Tin Mừng này mặc khải cho ta biết vào ngày phán xét, Ngài xét đoán mọi người theo tiêu chuẩn nào. Bài Tin Mừng cho thấy Thiên Chúa chỉ phán xét theo một tiêu chuẩn duy nhất, đó là mỗi người đã yêu thương tha nhân, đặc biệt những người nghèo hèn bé mọn như thế nào. Bài Tin Mừng không nói đến việc Ngài xét về chuyện ta đã thờ phượng Thiên Chúa ra sao, đã cầu nguyện nhiều hay ít, có siêng năng tham dự hay cử hành các nghi thức tôn giáo hay không, có góp phần xây dựng thánh đường, Giáo Hội không, có vào hội đoàn nào hay không…

Tất cả những sinh hoạt tôn giáo ấy đều chỉ là những phương tiện nhằm giúp con người đạt được mục đích duy nhất là trở nên giống Thiên Chúa, Đấng mà bản chất là tình yêu. Nhờ đó con người trở nên yêu thương nhiều hơn, tốt hơn, cao thượng hơn, từ đó mạnh mẽ hơn, bình an và hạnh phúc hơn. Nếu thực hiện những sinh hoạt tôn giáo mà không đạt được mục đích ấy, thì ích lợi gì? Có được những chiếc xe tuyệt hảo, tối tân, đắt tiền để đi đến một nơi cần thiết nào đó, nhưng cuối cùng chẳng tới được, thì đâu ích lợi bằng một người đi bộ mà đến được đích. Nếu không đạt được tình yêu chân thật trong lòng, điều ấy có nghĩa là có một điều gì không ổn trong những sinh hoạt tôn giáo của ta. Có thể ta chưa nắm rõ mục đích của những sinh hoạt ấy, hoặc thực hiện chúng với tâm tình vị kỷ, vụ lợi, hoặc chưa thật sự gặp gỡ được Thiên Chúa trong những sinh hoạt ấy…

Để vào Nước Trời, Nước của Tình Yêu, điều kiện tất yếu không có không được, đó là tình yêu chân thực đối với Thiên Chúa, được thể hiện thành tình yêu đối với tha nhân. Vì không ai có thể vào được Nước của Thiên Chúa, nếu người ấy không giống Thiên Chúa. Mà bản chất của Thiên Chúa là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16), nên giống Thiên Chúa có nghĩa là có tình yêu, hay nói đúng hơn, là trở nên hiện thân của tình yêu.




3. Tiêu chuẩn duy nhất để phán xét là tình yêu đối với tha nhân

Ngày phán xét, Thiên Chúa chỉ xét theo tiêu chuẩn duy nhất là tình yêu thì thật là hợp lý. Vì khi Đức Giêsu xuống trần gian để thành lập Nước Trời, Ngài chỉ ban cho con người một giới răn duy nhất, đó là: «Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em» (Ga 13,34). Nếu Ngài còn đưa ra nhiều giới răn khác, thì khi phán xét, Ngài sẽ phải xét theo nhiều tiêu chuẩn khác nữa. Nhưng Ngài đã chỉ đưa ra một giới răn duy nhất, nên khi phán xét, Ngài không thể phán xét theo một tiêu chuẩn nào khác với giới răn duy nhất Ngài đã ra. Thật là vô lý khi chỉ yêu cầu mọi người tuân giữ một điều duy nhất, rồi đến khi phán xét lại xét theo nhiều tiêu chuẩn khác ngoài điều duy nhất ấy!

Đức Giêsu đã nhấn mạnh đến giới răn này và nhấn mạnh tầm quan trọng của nó đến nỗi không hề đưa ra một giới răn nào khác, để những người theo Ngài tập trung nỗ lực vào điều duy nhất ấy, không quá phân tâm vào những chuyện phụ thuộc khác. Bài Tin Mừng này rõ ràng lại nhấn mạnh thêm một lần nữa điều quan trọng ấy. Nhưng thật lạ lùng và buồn cười thay, nhiều Kitô hữu lại chẳng quan tâm đến điều Ngài đã nhấn mạnh rõ ràng đến như thế, mà lại cứ quan tâm những chuyện phụ thuộc khác! Vì thế, công giữ đạo của họ cuối cùng hóa ra «công cốc», đúng như câu: «Dã tràng xe cát biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì»! 

Ngài đã từng trách những người Pharisêu biết bao nhiêu lần, là cứ đặt quá nặng những điều phụ thuộc, còn điều chính yếu thì lại coi quá nhẹ, lại còn dạy người ta như thế nữa: «Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt 23,23; x. 23,16-22). Vì thế, Ngài đã gọi họ là «quân dẫn đường mù quáng!» (Mt 23,16.24; x. 15,14). Thế mà lạ lùng thay, ta lại cứ đi vào vết xe đã đổ của họ!



4.  Đừng để mình phải ngạc nhiên trong ngày phán xét

Điều đáng ta suy nghĩ và quan tâm là sự ngạc nhiên của cả người được chúc phúc và người bị chúc dữ. Cả hai loại đều hỏi Chúa hai câu tương tự nhau: «Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà (không) cho ăn, khát mà (không) cho uống; v.v…» (Mt 25,37-39.44). Rất có thể vào ngày đó, chính chúng ta cũng ngạc nhiên như vậy, cho dù Ngài đã từng báo trước rất rõ ràng trong các sách Tin Mừng rằng Ngài sẽ phán xét theo tiêu chuẩn duy nhất ấy, và Ngài tự đồng hóa Ngài với tha nhân của ta. 

Suốt cuộc đời ta, chẳng bao giờ ta thấy Ngài hiện ra trước mặt để ta có thể làm một điều tốt lành nào đó cho Ngài cả. Thế thì tại sao Ngài lại khen những người bên phải là đã làm cho Ngài đủ chuyện, và trách những người bên trái là đã chẳng làm cho Ngài điều gì? Thật ra, Ngài luôn luôn hiện thân thành những tha nhân bên cạnh ta: cha mẹ, vợ con, anh chị em, bạn bè, hàng xóm, người cùng sở làm… Và hiện thân cụ thể nhất của Ngài chính là những người nghèo khổ, ốm đau, bị áp bức, tù đày… Tất cả những gì ta làm cho họ là làm cho chính Ngài, và ta trở nên công chính chính vì ta đã thể hiện tình thương với họ. Và tất cả những gì ta không làm cho họ, cũng là không làm cho chính Ngài, và ta trở nên người bị chúc dữ chính vì ta đã không thể hiện tình thương với họ.

Nhưng theo thói thường, ta chỉ tỏ ra yêu thương và đối xử tốt với những người mà ta hy vọng có thể đem lại cho ta lợi lộc, chức quyền, danh vọng: những kẻ giàu có, quyền thế, có địa vị… Thật ra, khi đối xử tốt với những người này, là ta đối xử tốt với chính ta chứ không phải với Thiên Chúa. Đức Giêsu khuyên: «Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, hay bà con, hoặc láng giềng giàu có, kẻo họ cũng mời lại ông, và như thế ông được đáp lễ rồi. Trái lại, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ, và như thế, ông mới thật có phúc» (Lc 14,12-14). Nói chung, chỉ khi nào ta làm điều gì cho người khác vì tình yêu, một cách vô vị lợi, không nhằm ích lợi gì cho mình về sau, thì mới là làm cho chính Thiên Chúa.




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, con muốn nhận Đức Giêsu là Vua của cõi lòng con. Ngài chính là Tình Yêu. Xin cho cõi lòng con trở nên Nước Trời, Nước của Tình Yêu, để Tình Yêu thống trị lòng con, chi phối mọi ý tưởng, lời nói và hành vi của con suốt cuộc đời.


TN34a - Yêu thương tha nhân là tiêu chuẩn duy nhất để biết ta có tin và yêu Thiên Chúa đích thật hay không




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 34 Thường Niên
Lễ Chúa Kitô Vua

(22-11-2020)


Yêu thương tha nhân
là tiêu chuẩn duy nhất để biết
ta có tin và yêu Thiên Chúa đích thật hay không



ĐỌC LỜI CHÚA

  Ed 34,11-12.15-17: (11) Chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm. (12) Như mục tử kiểm điểm đàn vật của mình vào ngày nó ở giữa đàn chiên bị tản mác thế nào, thì Ta cũng sẽ kiểm điểm chiên của Ta như vậy.

  1Cr 15,20-26.28: (22) Như mọi người vì liên đới với Ađam mà phải chết, thì mọi người nhờ liên đới với Đức Kitô cũng được Thiên Chúa cho sống. 


  TIN MỪNG: Mt 25,31-46

Cuộc Phán Xét Chung

(31) Khi Con Người đến trong vinh quang của Người, có tất cả các thiên sứ theo hầu, bấy giờ Người sẽ ngự lên ngai vinh hiển của Người. (32) Các dân thiên hạ sẽ được tập hợp trước mặt Người, và Người sẽ tách biệt họ với nhau, như mục tử tách biệt chiên với dê. (33) Người sẽ cho chiên đứng bên phải Người, còn dê ở bên trái. 

(34) Bấy giờ Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên phải rằng: «Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. (35) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; (36) Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han». (37) Bấy giờ những người công chính sẽ thưa rằng: «Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; (38) có bao giờ đã thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? (39) Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu?» (40) Đức Vua sẽ đáp lại rằng: «Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy». 

(41) Rồi Đức Vua sẽ phán cùng những người ở bên trái rằng: «Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. (42) Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; (43) Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng». (44) Bấy giờ những người ấy cũng sẽ thưa rằng: «Lạy Chúa, có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói, khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù, mà không phục vụ Chúa đâu?» (45) Bấy giờ Người sẽ đáp lại họ rằng: «Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi không làm như thế cho một trong những người bé nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho chính Ta vậy». (46) Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp, còn những người công chính ra đi để hưởng sự sống muôn đời.




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Người đời chúng ta dựa vào tiêu chuẩn nào để phân biệt người tốt kẻ xấu? Khi Thiên Chúa phán xét nhân loại, Ngài có phân biệt theo kiểu của chúng ta không? Ngài có mạc khải về những tiêu chuẩn phân biệt của Ngài không? 
2. Thiên Chúa phân biệt kẻ xấu với người tốt dựa trên tiêu chuẩn nào? Tại sao vậy? Phân biệt theo tiêu chuẩn ấy có hợp lý không? 
3. Qua bài Tin Mừng này, bạn có rút ra được bài học gì mới cho việc nên thánh của bạn không? Quan niệm về nên thánh của bạn có gì thay đổi không?

Suy tư gợi ý:

1.  Viễn cảnh cánh chung: Thiên Chúa tách biệt chiên và dê

Bài Tin Mừng cho thấy một viễn cảnh sẽ xảy ra vào ngày cánh chung, nghĩa là vào thời điểm tận cùng của thời gian, cũng là tận cùng của trần thế này. Ngày ấy, Thiên Chúa sẽ phân mọi người trên trần gian thành hai loại: một bên là những kẻ thật sự tin theo Ngài, bên kia là những kẻ không tin, hay những kẻ tự xưng là tin Ngài bằng lời nói, nhưng qua hành động lại tỏ ra không tin. 

Để ám chỉ hai hạng người này, bài Tin Mừng dùng hình ảnh chiên và dê, là hình ảnh mà ngôn sứ Êdêkien đã dùng (x. Ed 34,17-24). Vì chiên và dê là hai loài thú cùng được chăn nuôi chung trong một đồng cỏ, ở chung với nhau trong một ràn. Chỉ đến thời kỳ xén lông thì người ta mới phân rẽ chúng theo loại. 

Dụ ngôn lúa và cỏ lùng (x. Mt 13,24-30) cũng cho thấy hai loại cây cùng sống chung với nhau –không phân biệt được– trên cùng một thửa ruộng. Cả hai cùng lớn lên bên cạnh nhau cho tời mùa gặt, chỉ tới lúc đó chúng mới bị phân rẽ: «cỏ lùng thì bó thành bó mà đốt đi, còn lúa thì thu vào kho lẫm» (13,30)

Tương tự, chỉ tới ngày cánh chung, kẻ tin và không tin, kẻ thật sự tin và kẻ có vẻ tin mới được phân chia và tách biệt. Chúng ta hãy thử tự xét xem, vào ngày đó, mình thuộc loại nào?



2.  Tiêu chuẩn để phân loại

Chỉ có Thiên Chúa, với trí tuệ sáng suốt vô cùng, nhìn thấu suốt tâm can con người, mới có thể xét từng người để xếp họ vào loại nào. Tin Mừng cho ta thấy: 

– ngày ấy, toàn nhân loại chỉ được phân ra thành hai loại: chiên và dê, tượng trưng cho người hiền và người dữ, kẻ tin và không tin Thiên Chúa, không có loại thứ ba. 

– ngày ấy, Thiên Chúa phán xét theo hành động chứ không theo lời nói của con người. Vấn đề là có làm hay không và làm như thế nào, chứ không phải là có nói hay không, có tuyên xưng hay không, hay nói và tuyên xưng thế nào. 

– ngày ấy, Thiên Chúa chỉ phán xét và phân loại dựa theo một tiêu chuẩn duy nhất: cách mỗi người đối xử với tha nhân chung quanh mình.
 
Dường như không có một tiêu chuẩn nào khác: Thiên Chúa không cần phân biệt ai là giáo hoàng, ai là giám mục, ai là linh mục, ai là giáo dân; không cần biết ai giàu ai nghèo, ai có địa vị ai là thường dân; thậm chí không cần biết ai đi lễ nhiều, ai đọc kinh nhiều, ai lần chuỗi nhiều, ai hành hương nhiều, ai cúng vào nhà thờ nhiều, v. v… Ngài chỉ xét có một điều: mỗi người đã làm gì và không làm gì cho tha nhân. Như thế, chính hành động của chúng ta –chứ không phải lời nói hay cái gì khác– quyết định chúng ta thuộc loại này hay loại kia.




3. Đó chính là tiêu chuẩn thực tế để Chúa phán xét ai tin và ai không tin


a) Tin vào Đức Giêsu là điều kiện để được cứu độ

Trên nguyên tắc, ai tin vào Đức Giêsu thì sẽ được cứu độ (x. Cv 16,31; Rm 10,9; 10,13), và người ta được nên công chính là nhờ đức tin (x. Rm 1,17; 3,22.26.30; 9,30; 10,4) chứ không phải nhờ việc làm (x. Rm 3,28; 9,32; Gl 2,16; 3,11; ). Thật vậy, người ta không trở nên công chính nhờ vào việc làm, hay nhờ việc tuân giữ nghiêm chỉnh các điều luật dạy. Thật vậy, rất nhiều người có những hành động rất tốt, rất thiện hảo, thậm chí rất vĩ đại, nhưng không phát xuất từ đức tin hay tình yêu thương, mà từ một động lực vị kỷ, nhằm lợi lộc cho mình. Nhiều nhà tỉ phú bỏ tiền ra xây bệnh viện, trường học để phục vụ người nghèo với điều kiện là bệnh viện hay trường học đó phải mang tên mình, để mình được lưu danh muôn thuở là người đạo đức, biết yêu thương người nghèo. Hành động bố thí như thế không làm cho người ấy nên công chính, vì không phát xuất từ đức tin hay tình thương.

b) Đức tin ấy phải đích thực, được chứng tỏ bằng việc làm

Người ta chỉ trở nên công chính nhờ đức tin. Nhưng đức tin làm cho người ta nên công chính phải là đức tin đích thực: «Quả thế, có tin thật trong lòng mới được nên công chính» (Rm 10,10). Đức tin đích thực không phải là loại «đức tin rẻ tiền», là thứ đức tin chỉ được tuyên xung ngoài môi miệng mà không đi vào cuộc sống, không được chứng tỏ bằng việc làm hay hành động. Hàng rẻ tiền thường là hàng giả. Đức tin đích thực phải là thứ «đức tin đắt giá», không chỉ được tuyên xưng ngoài miệng, mà được chứng tỏ bằng hành động, bằng những hy sinh cụ thể theo sự đòi hỏi của đức tin. Đức tin của chúng ta luôn luôn đòi hỏi một thái độ, một sự lựa chọn thích hợp. Vì không thể vừa tin, mà lại vừa có đời sống trụy lạc, hèn nhát, tham lam, ích kỷ… Thánh Giacôbê xác định: «Đức tin không việc làm là đức tin chết» (Gc 2,14.17)

c) Việc làm của đức tin là việc làm gì? 

Tin ở đây là tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu. Mà bản chất của Thiên Chúa chính là Tình Yêu, và Đức Giêsu chính là hiện thân của Tình Yêu Thiên Chúa giữa nhân loại. Do đó, những ai thật sự tin vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu, ắt phải yêu mến Ngài và trở nên giống Ngài, nghĩa là trở nên một hiện thân của tình yêu giữa những người chung quanh, gần gũi với mình nhất, đặc biệt với những người đau khổ, túng thiếu, bị áp bức, bất công, cần lòng thương xót

Như vậy, muốn biết ai tin vào Ngài, thì cứ xem cách người ấy cư xử với những người chung quanh, những người gần gũi nhất (vợ con, cha mẹ, anh chị em ruột thịt, bạn bè thân thiết…), và những người nghèo khổ cần được cứu giúp. Nếu tin Thiên Chúa đích thực, người ấy ắt sẽ phải cư xử với họ bằng tình thương, cụ thể qua sự hy sinh, chấp nhận mất mát đau khổ vì họ. 

Vả lại, những người chung quanh ta, đặc biệt những người đang đau khổ cần được ta nâng đỡ, cứu giúp, chính là hiện thân của Thiên Chúa hay của Đức Giêsu bên cạnh chúng ta. Đức Giêsu xác định rõ điều ấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Vì thế, yêu Ngài thì ắt nhiên cũng phải yêu hiện thân của Ngài bên cạnh chúng ta. Do đó, tới ngày phán xét, Ngài chỉ cần dùng một tiêu chuẩn để xét xem chúng ta có tin vào Ngài không, là dựa vào cách cư xử của chúng ta với tha nhân

Để tóm gọn lại cách nên thánh cho chúng ta, Đức Giêsu nói: «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13,34-35). Tóm lại, yêu thương tha nhân chính là tiêu chuẩn để phân biệt giữa môn đệ đích thực của Đức Giêsu với những người khác.




CẦU NGUYỆN

Tôi nghe Đức Giêsu nói với tôi: «Anh tin Thầy và sống đạo của Thầy thế nào, Thầy chỉ cần dựa vào cách anh đối xử với những người chung quanh anh là Thầy biết ngay. Chắc chắn anh không thể tin Thầy đích thực khi anh đối xử với những người chung quanh anh không ra gì. Họ chính là hiện thân của Thầy bên cạnh anh. Anh đối xử với họ thế nào là đối xử với chính Thầy như vậy. Anh yêu họ chính là anh yêu Thầy. Anh làm điều gì cho họ, chính là anh làm điều đó cho Thầy».


Tuesday, November 10, 2020

TN33b - Đạo đức không chỉ là tránh điều ác, mà là làm những gì tình yêu đòi hỏi.




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 33 Thường Niên

(15-11-2020)

Bài đào sâu

Đạo đức không chỉ là tránh điều ác, 
mà là làm những gì tình yêu đòi hỏi.



  TIN MỪNG: Mt 25,14-30

Dụ ngôn những yến bạc




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Người có một yến bạc đem chôn giấu đi, có làm điều gì thiệt hại cho ông chủ, hay làm điều gì gian ác đối với ông không? Tại sao người ấy bị phạt? Lý do bị phạt là gì? 
2. Người chỉ cố gắng tránh điều ác chứ không nỗ lực làm điều thiện, có được gọi là người đạo đức, tốt lành chưa? Quan niệm của Đức Giêsu về vấn đề này thế nào? 
3. Tài năng Thiên Chúa ban cho ta là để ta hãnh diện với mọi người hay là để ta đem ra phục vụ mọi người? Ta có trách nhiệm gì khi được Thiên Chúa ban cho nhiều ơn huệ hơn mọi người không? 


Suy tư gợi ý:

1.  Trách nhiệm đối với những ân huệ Thiên Chúa ban

Dụ ngôn những yến bạc của bài Tin Mừng hôm nay nói lên một sự thật đang xảy ra trong thực tế đời sống hằng ngày của ta. Đó là Thiên Chúa ban cho chúng ta nhiều ơn huệ khác nhau: sức khỏe, trí khôn, tài giỏi, năng khiếu, thì giờ, nhà cửa, tiền bạc, nghề nghiệp, cha mẹ, anh chị em, vợ con, bạn bè, v.v… kẻ ít người nhiều, người được ân này kẻ được ân khác. Đó là những yến bạc mà Thiên Chúa ban cho mỗi người cách khác nhau. 

Điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là mỗi người đều có trách nhiệm đối với những ân huệ đã nhận được. Chúng ta phải sử dụng ân huệ ấy đúng ý Thiên Chúa, phải dùng những ân huệ ấy để sinh lợi ích cho Ngài, cho tha nhân bên cạnh chúng ta. Người được Ngài ban cho nhiều thì cũng bị Ngài đòi hỏi nhiều, người được ban ít thì bị đòi hỏi ít. Và chúng ta ai nấy đều phải trả lẽ trước mặt Ngài về những ích lợi mình làm ra được từ những ân huệ ấy. 

Như vậy, những ân huệ Ngài ban, ta có nhiệm vụ quản lý chúng chứ không phải là làm chủ chúng. Nghĩa là ta không nên sử dụng chúng theo ý riêng ta, mà theo ý của Ngài. Do đó, đừng vội mừng vì được Ngài ban cho nhiều, và cũng đừng vội buồn vì được Ngài ban cho ít. Được ban nhiều thì đòi hỏi cũng nhiều, được ban ít thì đòi hỏi cũng ít. Thế mới công bằng! Dù nhiều hay ít, ai cũng phải sử dụng những ân huệ Ngài ban để tạo ích lợi cho Ngài, cho Giáo Hội Ngài, cho tha nhân. 




2.  Quan niệm về đạo đức theo dụ ngôn những yến bạc

Điều chúng ta cần lưu tâm là người được một nén tuy không hề làm điều gì ác, không làm mất mát hay thiệt hại gì cho ông chủ, thế mà bị ông chủ phạt, bị «quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng» (Mt 25,30). Anh ta bị phạt vì đã được chủ giao cho một yến bạc, nhưng không làm lợi ra được thành một yến khác vì đã cất kỹ nó vào một chỗ. 

Suy nghĩ về dụ ngôn này này khiến chúng ta phải thay đổi ít nhiều quan niệm về đạo đức. Chúng ta thường tưởng rằng hễ mình không làm điều gì ác thì mình là người vô tội, công chính. Nhưng không phải thế. Theo tinh thần của dụ ngôn, một khi đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa mà ta lại không dùng ân huệ đó để tạo lợi ích cho Thiên Chúa và tha nhân, thì ta trở thành kẻ có tội, cho dù ta không hề làm một điều gì thất đức cả. Đó là ý nghĩa của cụm từ «những điều thiếu sót» trong kinh Cáo Mình: «Tôi đã phạm tội nhiều, trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót». Ít ai quan tâm tới tội phạm do thiếu sót. Nhưng rất có thể trong cuộc đời ta, thứ tội lớn nhất và nhiều nhất của ta khiến ta bị luận phạt nhiều nhất lại chính là tội «những điều thiếu sót» này. Dù là tội gì, thì căn bản của tội vẫn là do thiếu tình yêu.



3.  Đạo đức không chỉ là trách điều ác

Cũng vậy, trong bài Tin Mừng về ngày phán xét cuối cùng, những kẻ bị kết án không phải chỉ là những người đã từng làm điều ác, mà còn là biết bao người không hề làm một điều gì ác. Lý do khiến họ bị kết án chính là: «Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn; Ta khát, các ngươi đã không cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc; Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng» (Mt 25,42-43). Chữ «Ta» trong câu này chính là Đức Giêsu được hiện thân thành tha nhân của ta, nhất là những kẻ nghèo hèn bé mọn. Như vậy, theo Đức Giêsu, người không làm điều gì ác chưa phải là người đạo đức, tốt lành, giống như biết bao Kitô hữu đang quan niệm. Thật vậy, nhiều Kitô hữu, kể cả trí thức, người dạy giáo lý, hễ cảm thấy mình không làm điều ác thì liền nghĩ mình vô tội, thậm chí còn tự hào mình đạo đức nữa.

Nguyên tắc đạo đức chung của con người là «tránh ác, hành thiện». Nếu ta chỉ tránh điều ác nhưng không cố gắng làm điều thiện, thì ta mới thực hiện được một phần rất nhỏ của nguyên tắc ấy thôi. Vì tránh ác thì tương đối dễ, còn hành thiện trong những trường hợp mà lương tâm đòi buộc thì đòi hỏi phải hy sinh, vất vả hơn rất nhiều. Tránh ác hay không làm ác thì không cần nhiều khả năng, vì làm một điều gì đó thì mới cần tới khả năng chứ không làm thì cần gì khả năng? Thật vậy, một trẻ nhỏ, một con vật, có khả năng gì đâu, thế mà chúng vẫn có thể không làm điều gì ác cả. Thiên Chúa đã ban cho ta mỗi người một số khả năngđể ta làm điều thiện, nhất là để làm theo những đòi hỏi của tình yêu trong lòng ta. Nếu khả năng Thiên Chúa ban cho ta mà ta không chịu dùng để làm những điều ích lợi, thì ta sẽ chịu trách nhiệm trước mặt Ngài. Do đó, nhiều khi ta tưởng mình vô tội, tưởng mình đạo đức khi thấy mình chưa hề nhúng tay làm điều gì ác. Nhưng rất có thể Thiên Chúa vẫn kết án ta là tội lỗi, chỉ vì ta đã không làm những gì mình phải làm. Tuy nhiên, hai người cùng ít làm điều thiện y như nhau, người nào có nhiều khả năng hơn thì tội người ấy lớn hơn.




4.  Càng nhiều khả năng, trách nhiệm càng lớn

Vì thế, người có nhiều khả năng, nhiều điều kiện để làm điều thiện, thì càng phải ý thức trách nhiệm của mình. Thông thường, càng nhiều khả năng, nhiều tài, nhiều của, càng có địa vị cao, chức vụ lớn, càng trí thức, càng giỏi giang, càng được suy tôn, thì ta càng cảm thấy sung sướng và hãnh diện trước mặt người đời, nhất là trước những người kém cỏi hơn mình. Nhưng khi đọc dụ ngôn này, ta càng cảm thấy run sợ trước trách nhiệm của ta. Trong quá khứ, có biết bao trường hợp ta phải ra tay, phải hành động, phải can thiệp, phải cứu giúp, phải lên tiếng bênh vực, phải nói lên sự thật, phải minh oan, phải khuyên can… mà ta đã không làm gì cả, đang khi ta có thể làm những điều ấy tốt hơn và hữu hiệu hơn ai hết. Thậm chí ta có sứ mạng hay trách nhiệm hành động hay can thiệp. Tệ hơn nữa, ta không hề cảm thấy mình có lỗi gì cả, vẫn cứ tự hào mình vô tội, mình đạo đức, và chẳng thấy cần hối hận điều gì. Chỉ vì ta thấy mình không hề làm điều gì gian ác! Dụ ngôn này cho thấy quan niệm như thế là sai lầm! 

Điều ngăn trở khiến ta không muốn là điều thiện, điều cần thiết hoặc ích lợi cho tha nhân, cho xã hội, đó chính là ta thiếu tình yêu. Tình yêu chính là yếu tố thiết yếu nhất của đạo đức, của sự thánh thiện. Chính tình yêu làm ta nên giống Thiên Chúa hơn bất kỳ điều gì khác, vì bản chất của Thiên Chúa là tình yêu (1Ga 4,8.16). Nhưng rất nhiều Kitô hữu lại quan niệm cốt yếu của đạo đức hay thánh thiện là ở một điều gì khác: kẻ thì bảo hệ tại việc giữ luật lệ cho hoàn hảo, người cho rằng hệ tại việc cầu nguyện cho nhiều, kẻ khác cho rằng hệ tại việc thực hành chăm chỉ các nghi thức tôn giáo, kẻ khác nữa cho rằng hệ tại làm điều tốt này việc tốt kia… Thật ra, tất cả những chuyện ấy đều tốt, nhưng chúng chỉ là phương tiện để giúp ta hình thành hay củng cố tình yêu trong lòng ta. Nếu chúng không nhắm hay không đạt được mục đích ấy thì chúng đều trở thành vô ích. Thánh Phaolô xác định điều ấy: «Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi» (1Cr 13,3).





CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, con được Cha ban cho biết bao ơn huệ, thậm chí hơn rất nhiều người. Thế mà con chỉ biết cám ơn Cha, ca tụng tình yêu thương của Cha, chứ không hề nghĩ đến trách nhiệm phải sử dụng những ơn huệ ấy để làm ích lợi cho Cha, cho Giáo Hội, cho xã hội và tha nhân chung quanh con. Biết bao lần lương tâm và tình yêu trong con đòi buộc con phải ra tay cứu giúp, bênh vực, minh oan cho người khác, nhưng con đã không làm. Xin giúp con nhận ra đó là tội lỗi. Con chưa hề có ý thức tội lỗi về những việc phải làm mà không làm. Xin tha thứ cho con. Con cảm thấy cần phải sám hối và thay đổi lại quan niệm của con.


TN33a - Người khôn ngoan luôn ý thức trách nhiệm về những thuận lợi mình đang được hưởng




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 33 Thường Niên

(15-11-2020)


Người khôn ngoan luôn ý thức trách nhiệm
về những thuận lợi mình đang được hưởng




ĐỌC LỜI CHÚA

  Cn 31,10-13.19-20.30-31: (10) Tìm đâu ra một người vợ đảm đang? Nàng quý giá vượt xa châu ngọc. (11) Chồng nàng hết dạ tin tưởng nàng, chàng sẽ chẳng thiếu chi lợi lộc. (12) Suốt đời, nàng đem lại hạnh phúc chứ không gây tai hoạ cho chồng.

  1Tx 5,1-6: (2) Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. (3) Khi người ta nói: «Bình an biết bao, yên ổn biết bao!», thì lúc ấy tai hoạ sẽ thình lình ập xuống, tựa cơn đau chuyển bụng đến với người đàn bà có thai, và sẽ chẳng có ai trốn thoát được. 


  TIN MỪNG: Mt 25,14-15.19-21

Dụ ngôn những yến bạc

(14) Có người kia sắp đi xa, liền gọi đầy tớ đến mà giao phó của cải mình cho họ. (15) Ông cho người này năm yến, người kia hai yến, người khác nữa một yến, tuỳ khả năng riêng mỗi người. Rồi ông ra đi. Lập tức, (16) người đã lãnh năm yến lấy số tiền ấy đi làm ăn buôn bán, và gây lời được năm yến khác. (17) Cũng vậy, người đã lãnh hai yến gây lời được hai yến khác. (18) Còn người đã lãnh một yến thì đi đào lỗ chôn giấu số bạc của chủ. (19) Sau một thời gian lâu dài, ông chủ đến tính sổ với các đầy tớ và thanh toán sổ sách với họ. (20) Người đã lãnh năm yến tiến lại gần, đưa năm yến khác, và nói: «Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi năm yến, tôi đã gây lời được năm yến khác đây». (21) Ông chủ nói với người ấy: «Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!» (22) Người đã lãnh hai yến cũng tiến lại gần và nói: «Thưa ông chủ, ông đã giao cho tôi hai yến, tôi đã gây lời được hai yến khác đây». (23) Ông chủ nói với người ấy: «Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!» (24) Rồi người đã lãnh một yến cũng tiến lại gần và nói: «Thưa ông chủ, tôi biết ông là người hà khắc, gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi. (25) Vì thế, tôi đâm sợ, mới đem chôn giấu yến bạc của ông dưới đất. Của ông đây, ông cầm lấy!» (26) Ông chủ đáp: «Hỡi đầy tớ tồi tệ và biếng nhác! Anh đã biết tôi gặt chỗ không gieo, thu nơi không vãi, (27) thì đáng lý anh phải gởi số bạc của tôi vào ngân hàng, để khi tôi đến, tôi thu được cả vốn lẫn lời chứ! (28) Vậy các ngươi hãy lấy yến bạc khỏi tay nó mà đưa cho người đã có mười yến. (29) Vì phàm ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi. (30) Còn tên đầy tớ vô dụng kia, hãy quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài: ở đó, sẽ phải khóc lóc nghiến răng».




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Trên đời, kẻ được Thiên Chúa ban cho rất nhiều thuận lợi, kẻ lại bị Ngài cho gặp rất nhiều nghịch cảnh. Vậy Ngài có phải là một Thiên Chúa bất công không? Nếu không bất công thì phải giải thích sự bất bình đẳng này ra sao?
2. Người được nhiều thuận lợi có trách nhiệm gì về những thuận lợi của mình không? Trách nhiệm thế nào?
3. Thiên Chúa phán xét con người dựa trên những thành quả, mức độ hoàn hảo mà con người đạt được, hay dựa trên mức độ nỗ lực mà con người đã làm để trở nên hoàn hảo hơn?

Suy tư gợi ý:

1.  Trên đời, sự phân phối những giá trị tốt đẹp không đồng đều 

Không ai có thể chối cãi điều này: trên đời, người ta khác nhau về đủ mọi phương diện: tính tình, khuynh hướng, khả năng, quan niệm, tư tưởng, đạo đức, sức khỏe, v.v… Đúng như cổ nhân nói: «Bá nhân bá tánh», «chín người mười ý»… Và ngay trong từng phương diện, người ta cũng khác nhau về mức độ, chẳng ai tuyệt đối bằng ai, y hệt như: «Bàn tay ngón thấp ngón cao». Điều đó tạo nên sự phong phú đa dạng trong thế giới con người. Trong những lãnh vực khác của thiên nhiên vạn vật cũng có sự đa dạng y như thế. Như vậy, phải chăng Thiên Chúa bất công? Phải chăng những người có tài đức hơn người, có nhiều điều kiện phát triển hơn người, giàu có hơn người… thì được lợi hơn những người khác?



2.  Ai nhận được nhiều thì bị đòi hỏi nhiều

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy: Thiên Chúa cho ai nhiều, thì Ngài đòi hỏi người ấy nhiều. Ngược lại Ngài cho ai ít, thì lại đòi hỏi người ấy ít. Đức Giê-su đã từng nói: «Hễ ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn» (Lc 12,48). Người được Thiên Chúa ban nhiều ân huệ mà không làm những ân huệ sinh lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, cho tha nhân, thì ân huệ ấy trở thành án phạt cho mình. Cho nên ân huệ nhiều thì trách nhiệm cũng nhiều. Vậy ai nhận được nhiều thì cũng nên lo lắng về trách nhiệm của mình. Còn ai được ít thì cũng nên tự an ủi vì trách nhiệm của mình ít. Như vậy kẻ được nhiều không hẳn đã hay, và kẻ được ít không hẳn đã dở. Mới nghĩ thì thấy Thiên Chúa không công bằng, nhưng nghĩ cho kỹ thì thấy Ngài tuy chủ trương đa dạng nhưng lại rất công bằng.

Những ân huệ ta nhận được cũng như món tiền ta vay của ngân hàng, phải trả tiền lời theo định kỳ, mỗi tháng hoặc mỗi năm. Do đó, vay càng nhiều tiền thì càng phải sinh lợi ra nhiều để có thể trả số lời tương ứng với số tiền mình vay. Giả như lãi suất là 10% một năm (tức 0,83% một tháng), thì trong 10 năm, tiền lời sẽ lên cao bằng tiền vay ban đầu. Nếu vay trong 20 năm, tiền lời thành gấp đôi tiền vay ban đầu. Nếu vay nhiều mà không đủ khả năng sinh lợi ra nhiều, thì sẽ không có tiền để trả lãi, và vay càng lâu thì tiền lời càng cao, nếu không sinh lợi thì càng nguy hiểm. Vì tới kỳ hạn cuối cùng, phải thanh toán cả vốn lẫn lời, nếu không có khả năng trả hết thì có nguy hiểm phải ngồi tù. Do đó, nếu không có khả năng làm ăn sinh lợi, thì vay được nhiều không phải là điều tốt đẹp mà trái lại có thể là nguyên nhân gây ra tai họa. Vay càng nhiều, họa càng lớn. Tương tự, được Thiên Chúa ban nhiều thuận lợi chớ vội mừng hay tự hào, vì nếu không làm cho chúng sinh lợi thì rất có thể những thuận lợi ấy lại trở thành tai họa.




3.  Hãy ý thức trách nhiệm về những thuận lợi mình đang hưởng

Vậy chúng ta hãy tự xét xem chúng ta được Thiên Chúa ban cho những thuận lợi nào: khỏe mạnh, thông minh, được giáo dục tử tế, có văn hóa, nhà giàu có, nhiều tài năng, v.v… Chúng ta thường hãnh diện, tự hào với mọi người về những thuận lợi đó, mà rất ít khi nghĩ đến trách nhiệm vì được những thuận lợi hơn người đó. Thiết tưởng, khi được những thuận lợi hơn người, người Kitô hữu phải nghĩ đến trách nhiệm hơn là tự hào về chúng. Những thuận lợi đó phải được đem ra làm ích lợi cho Thiên Chúa, cho bản thân, và cho tha nhân. Nếu thuận lợi ta được quá nhiều, mà ích lợi ta làm ra được từ những thuận lợi đó lại quá ít, ắt nhiên ta không thể tránh được hình phạt của Thiên Chúa. Được quá nhiều thuận lợi mà không sinh lợi cho ai, điều ấy chứng tỏ ta không có tình yêu, và như thế là ta không có Thiên Chúa trong chúng ta. Thánh Gioan viết: «Nếu ai có của cải thế gian và thấy anh em mình lâm cảnh túng thiếu, mà chẳng động lòng thương, thì làm sao tình yêu Thiên Chúa ở lại trong người ấy được» (1Ga 3,17). Thật vậy, nếu về mặt vật chất mà Thiên Chúa còn đòi buộc chúng ta «ai có hai áo, hãy chia cho người không có; ai có gì ăn, cũng hãy làm như vậy» (Lc 3,11), thì về mặt tinh thần, Ngài còn đòi hỏi chúng ta phải chia sẻ hơn vậy rất nhiều. Vì sự chia sẻ vật chất thì rất giới hạn, còn chia sẻ tinh thần thì ít bị giới hạn hơn rất nhiều.



4.  Đừng vội tự hào hay kiêu hãnh về những thuận lợi của mình

Vậy khi xét xử, Thiên Chúa không xét theo mức độ đạo đức, những thành quả tâm linh mà chúng ta đang có hay đã đạt được, mà xét theo mức độ cố gắng của chúng ta để nên hoàn thiện hơn. Nếu Thiên Chúa ban cho ta 5 yến bạc, mà ta chẳng làm lợi ra được yến nào, nghĩa là ta không phát huy được những thuận lợi của ta, không dùng những thuận lợi ấy để làm ích cho ai, thì ta sẽ không được Ngài kể là công chính bằng một người chỉ được Ngài ban một yến, nhưng đã làm lợi ra được gấp 3, thành 3 yến. Tuy người ấy chỉ có 3 yến, nghĩa là kém ta tới 2 yến, nhưng người ấy được Thiên Chúa coi là công chính hơn ta rất nhiều. Có như thế, Ngài mới là một Thiên Chúa công bằng thật sự. 

Vì thế, đừng tưởng ta đạo đức hơn người, làm được nhiều việc tốt lành hơn người mà nghĩ rằng ta công chính hơn người. Coi chừng kẻo lầm to, vì thánh Phaolô từng cảnh cáo: «ai tưởng mình đang đứng vững, hãy coi chừng kẻo ngã» (1Cr 10,12). Vì không thể so sánh thấy kết quả của mình hơn người khác mà kết luận mình công chính hơn họ. Phải so sánh những thành quả mình làm được với những thuận lợi ban đầu Thiên Chúa ban cho xem đã tương xứng chưa. Thánh Phaolô viết: «Mỗi người hãy xem xét việc làm của chính mình (…) chứ đừng so sánh với người khác» (Gl 6,4)

Đi vào cụ thể, ta thử so sánh hai người sau đây: Một người sinh ra từ một cha mẹ trộm cướp hay đĩ điếm, không được giáo dục đầy đủ, nhưng anh đã cố gắng hết sức mình ra vượt ra khỏi vòng tội lỗi do cha mẹ mình để lại. Anh nỗ lực vươn lên sự thiện suốt cả cuộc đời, và anh đã trở thành một người khá lương thiện. Còn người kia được sinh ra từ một cha mẹ đức hạnh, được giáo dục đầy đủ, vì thế, dù anh chẳng cố gắng hay nỗ lực nhiều, anh vẫn được mọi người coi là rất tốt, và nhờ đó có một địa vị khá cao trong xã hội hay Giáo Hội. Như vậy, trước mặt người đời, người thứ hai chắc chắn được đánh giá là công chính hơn người thứ nhất. Nhưng rất có thể trước mặt Thiên Chúa, Ngài thấy nỗ lực vươn lên của người thứ nhất lớn hơn gấp nhiều lần nỗ lực của người thứ hai. Như thế chắc chắn phần thưởng Thiên Chúa dành cho người thứ nhất sẽ phải lớn hơn phần thưởng cho người thứ hai.

Quả thật cách phán xét của Thiên Chúa khác hẳn với cách phán đoán của người đời. Đức Giêsu từng nói với các các thượng tế và kỳ mục trong dân, là những người được dân chúng tôn trọng và cho là đạo đức. Ngài nói: «Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông» (Mt 21,31). Tại sao? Có thể vì những người tội lỗi ấy đã cố gắng vươn lên sự thiện nhiều hơn cả những bậc được coi là đạo đức kia! Nên khi Gioan Tẩy giả và Đức Giêsu đến, những người bị coi là tội lỗi ấy đã sám hối và tin theo ngay!




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, nhiều khi con vui mừng vì được Cha ban cho rất nhiều thuận lợi trong đời sống. Và con đã hãnh diện và tự hào với những người kém may mắn hơn con. Qua bài Tin Mừng này, con thấy mình thật dại dột, vì nếu con không dùng những thuận lợi ấy để bù đắp lại cho những người kém may mắn hơn con, thì vào ngày Cha phán xét, chính những thuận lợi ấy lại trở thành những gì gây bất lợi cho con. Xin cho con ý thức được trách nhiệm của con đối với họ