Tuesday, January 17, 2017

TN3a - Tại sao Đức Giêsu lại xuất thân từ xứ Galilê, là «miền đất của dân ngoại»


CHIA SẺ TIN MỪNG


Chúa Nhật thứ 3 Mùa Thường Niên
(22-1-2017)

Bài 1


Tại sao Đức Giêsu lại xuất thân từ xứ Galilê,
là «miền đất của dân ngoại»


ĐỌC LỜI CHÚA

  Is 8,23b–9,3: Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơvulun và đất Náptali, nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Giođan, vùng đất của dân ngoại.

  1Cr 1,10-13.17: (12) Tôi thấy trong anh em có những luận điệu như: «Tôi thuộc về Phaolô, tôi thuộc về Apôlô, tôi thuộc về Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô».



  TIN MỪNG: Mt 4,12-17

Đức Giêsu khởi đầu rao giảng tại Galilê


(12) Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Galilê. (13) Rồi Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê, thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali, (14) để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: (15) Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! (16) Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.

 (17) Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: «Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần». 


CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1.  Tại sao Thiên Chúa lại muốn Đức Giêsu xuất thân tại xứ Galilê, là «miền đất của dân ngoại» (Mt 4,15), mà không xuất thân ở xứ Giuđa là miền có rất đông dân theo đạo Do Thái? 
2.   Tại sao tôn giáo của Tân ước mà Đức Giêsu thiết lập lại chủ yếu do dân ngoại gia nhập, còn người Do Thái giáo lại gia nhập rất ít? Liệu người Kitô hữu hiện nay có đi vào vết xe cũ đã đổ của những người theo đạo Do Thái ngày xưa không? 
3.   Người đang được Thiên Chúa ưu đãi, nâng đỡ, cần có thái độ nào để Thiên Chúa vẫn tiếp tục ưu đãi và nâng đỡ?

Suy tư gợi ý:

1.   Xứ Galilê được chọn làm nơi xuất thân Đấng Cứu Thế

Nước Do Thái có ba vùng: đó là xứ Galilê (ở miền bắc), xứ Samari (ở miền trung) và xứ Giuđa (ở miền nam). Thủ đô tôn giáo của Do Thái giáo là Giêrusalem thuộc xứ Giuđa, xứ này là vùng có đông người theo đạo Do Thái nhất. Xứ Samari là miền tạp chủng, tuy theo đạo Do Thái, nhưng đạo này bị pha trộn với tôn giáo của dân ngoại, nghĩa là mang tính lạc giáo, nên bị người Giuđa khinh thường và coi như dân ngoại. Còn xứ Galilê là miền đất của dân ngoại – vì đa số dân chúng là ngoại đạo – như được nói trong bài Tin Mừng: «Hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại» (Mt 4,15). Theo sách ngôn sứ Isaia thì xứ Galilê «thuộc địa hạt Dơvulun và Náptali», hai địa hạt này là vùng đất bị Thiên Chúa nguyền rủa vì trong quá khứ, dân đã phạm một lầm lỗi nặng nề nào đó (x. Is 8,23b [a*]). Thế mà Đức Giêsu lại được Thiên Chúa tiền định là người Nadarét thuộc xứ Galilê, Ngài sinh trưởng và xuất thân từ đó. Các tông đồ mà Ngài tuyển chọn, tất cả cũng đều là người dân Galilê. Đến đây, ta phải tự hỏi: tại sao Thiên Chúa không để Đức Giêsu và các tông đồ của Ngài xuất thân ở vùng đất Giuđa là vùng của đạo Do Thái, mà lại xuất thân từ vùng Galilê là vùng của dân ngoại?

Quả thật, việc làm của Thiên Chúa không mấy ai hiểu được. Ngôn sứ Isaia viết: «Dù lãnh thổ Dơvulun và Náptali sắp bị Chúa đoán phạt, nhưng trong tương lai chính các lãnh thổ đó tức là vùng Galilê và bắc Giôđan, trên con đường ra biển sẽ đầy dẫy vinh quang» (Is 9,1; x. 8,23b [b*]). Đúng như Ngôn sứ Đanien viết: «Người nâng ai lên hay hạ ai xuống đều tuỳ ý Ngài» (Đn 5,19; x. Tv 147,6 [c*]; Hc 33,12 [d*]; Ed 17,24 [e*]; Ed 21,31 [f*]). Đương nhiên không phải Thiên Chúa nâng cao hay hạ thấp ai một cách tùy tiện theo ý ngông của Ngài, mà theo tiêu chuẩn này: «Chúa hạ bệ những ai quyền thế, kiêu căng; Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường» (Lc 1,52). Thật vậy, do biết khiêm nhường sám hối, vùng Caphácnaum (thuộc xứ Galilê) đã được Thiên Chúa chúc phúc và nâng lên. Nhưng khi được nâng lên, dân này lại sinh ra kiêu căng và tự hào, nên Đức Giêsu mới cảnh báo: «Còn ngươi nữa, hỡi Caphácnaum, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ!» (Lc 10,15).

Cũng vậy, dân Do Thái được Thiên Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài, đó là điều thật hạnh phúc cho họ. Nhưng thay vì sống theo giới luật hay tinh thần của Ngài để xứng đáng với ân huệ đặc biệt đó, họ lại lên mặt và khinh chê dân ngoại. Vì thế, khi Đấng Cứu Thế đến, Thiên Chúa đã không để cho xứ Giuđa – vùng đông người có đạo nhất – được vinh dự là nơi xuất thân của Đấng Cứu Thế. Dân Do Thái mang danh là tuyển dân của Thiên Chúa, tuy vẫn giữ đúng những tập tục tôn giáo Ngài truyền lại qua Môsê, nhưng họ chỉ thực hiện một cách hoàn toàn hình thức, thiếu tình yêu và lòng thành bên trong, họ đã trở nên nguội lạnh và gian ác. Bằng chứng là khi Đấng Cứu Thế đến, họ đã bách hại Ngài ngay khi Ngài sinh ra, và còn tiếp tục bách hại và giết chết Ngài khi Ngài xuất hiện ở tuổi trưởng thành. Vì thế, Thiên Chúa đã hạ bệ họ. Thánh Vinh 147 viết: «Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy; bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen» (Tv 147,6). Thật vậy, đến năm 70, Thiên Chúa đã khiến cho Giêrusalem, kinh đô của Do Thái giáo, trở thành «không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, vì đã không nhận biết thời giờ họ được Thiên Chúa viếng thăm» (Lc 19,44). Và dân Do Thái đã mất nước từ đó – suốt 19 thế kỷ – cho đến khi lập quốc trở lại vào năm 1947. Lập quốc trở lại nhưng dân Do Thái vẫn phải chịu đựng chiến tranh liên miên. Về mặt tôn giáo, Thiên Chúa đã lập nên một Giáo Hội mới mà chủ yếu là do dân ngoại gia nhập vào, còn người Do Thái thì chiếm tỷ lệ vô cùng nhỏ bé so với dân số của họ thời ấy. Sự việc đã xảy ra đúng như tinh thần dụ ngôn người thợ vườn nho sát nhân (Mt 21,33-46 [g*]) và dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-14 [h*]) của Đức Giêsu.

2.   Bài học cho mỗi người chúng ta

Những sự kiện nêu trên đáng cho chúng ta suy nghĩ và rút ra bài học. Rất có thể chúng ta đang được Thiên Chúa yêu thương cách đặc biệt, được ưu đãi hơn rất nhiều người khác. Nhưng thay vì biết ơn Ngài và sống cho xứng đáng với ơn ấy, thì chúng ta lại lên mặt kiêu căng với những người kém may mắn hơn, đồng thời sống giả hình, bên ngoài thì có vẻ thánh thiện, vị tha, nhưng thực chất là ích kỷ, kiêu kỳ. Chúng ta tìm cách đề cao mình, thổi phồng «cái tôi» cá nhân hoặc tập thể của mình lên. Và tìm cách đạt cho bằng được những địa vị, quyền bính, tiền bạc, để hưởng những vinh quang, lạc thú, thoải mái do chúng mang lại. Nhưng thật ra đó chính là cách hủy hoại mình hữu hiệu nhất, tự chuốc đau khổ cho mình cách tệ hại nhất. Chúng ta quên rằng «Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường» (Lc 1,51-52).

3.   Bài học cho các tập thể

Thiên Chúa đối xử với những cá nhân kiêu căng thế nào, thì Ngài cũng đối xử với những tập thể ngạo mạn như vậy. Lịch sử của dân Do Thái là một bài học đích đáng về chân lý ấy. Vì thế, nhiều khi chúng ta phải tự xét: liệu Giáo Hội – dân được Thiên Chúa tuyển chọn trong Tân ước – có đi vào vết xe cũ đã đổ của dân Do Thái – dân được Ngài tuyển chọn trong Cựu ước – không? Giáo Hội có quá tự hào vì được Thiên Chúa ưu đãi và tuyển chọn cách đặc biệt không? có coi thường các tôn giáo khác không? có sống xứng đáng với hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho mình không? Người Kitô hữu ngày nay – giáo dân cũng như giáo sĩ – có rập khuôn theo tinh thần cũ của dân Do Thái xưa không?

Nếu dân Do Thái xưa mà suy gẫm lời cảnh báo của Đức Giêsu xưa: «Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Ápraham”. Vì tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham» (Mt 3,9), và nếu họ sống phù hợp với tinh thần của Ngài, thì có lẽ họ đã không đến nỗi như hiện nay. Thánh Phaolô từng cảnh báo về lòng tự hào của họ: «Bạn mang tên là người Do-thái, ỷ rằng mình có Lề Luật, tự hào vì có Thiên Chúa; được biết ý Người, được Lề Luật dạy cho điều hay lẽ phải; (…) bạn tưởng mình có Lề Luật là có tất cả tri thức và chân lý» (Rm 2,17-20). Tự hào như thế thì cũng phần nào chính đáng, nhưng nếu vì sự tự hào ấy mà lên mặt với người khác là điều không hay, nhất là khi không sống cho xứng với niềm tự hào ấy: «Bạn dạy người khác, mà lại không dạy chính mình! (…) Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn làm nhục Thiên Chúa!» (Rm 2,21-23). Người Kitô hữu sẽ làm nhục Đức Kitô khi họ tự hào về Ngài nhưng lại không sống giới răn mới của Ngài (x. Ga 13,34 [i*]) bằng người ngoại.

4.   Hãy sám hối

Đức Giêsu xuất thân và khởi đầu việc rao giảng của Ngài tại Galilê, là «miền đất của dân ngoại». Để giúp cho Galilê được «đầy dẫy vinh quang» hầu ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia (x. Is 9,1 [j*]; 8,23b [k*]), Đức Giêsu khuyên dân chúng tại đó: «Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần». Cho dù tội lỗi, bị Thiên Chúa nguyền rủa, nhưng nếu biết sám hối, biết sửa đổi lại cách sống theo đường lối của Ngài, thì sẽ được Ngài nâng lên, chúc phúc. Dụ ngôn người thu thuế và người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện (x. Lc 18,9-14 [l*]) chứng minh điều đó. Trái lại, khi được Ngài nâng lên mà lại trở nên kiêu căng tự hào thì sẽ lại bị Ngài hạ xuống, như Đức Giêsu đã cảnh báo dân Caphácnaum (x. Lc 10,15 [m*]). Vậy, sám hối – tức khiêm nhường nhận ra sự sai trái của mình và quyết tâm sửa đổi cho đúng – là điều kiện cần thiết để được Thiên Chúa chúc phúc và nâng lên. Trong tinh thần sám hối ấy, thiết tưởng người Kitô hữu chúng ta – dù là cá nhân hay tập thể – cần tránh tự hào và kiêu hãnh trước người khác về những nhân đức mình có, những việc tốt đẹp mình làm được, những hồng ân đặc biệt Thiên Chúa ban cho mình một cách ưu đãi. Đồng thời cần cố gắng sống cho xứng đáng với những ân huệ đặc biệt ấy với tâm tình biết ơn.



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Cha không ưa thích và sẵn sàng hạ bệ những tâm hồn kiêu hãnh, tự đưa mình lên. Ngày xưa, không ai tốt lành, đẹp đẽ, sáng láng và thánh thiện cho bằng Tổng Lãnh Thiên Thần Luxiphe, nhưng chỉ vì kiêu hãnh về những phẩm tính tốt lành ấy và chống lại Cha mà trở nên vô cùng xấu xa, đau khổ. Xin giúp con hiểu rằng Cha vẫn ưa thích một tâm hồn tuy tội lỗi nhưng biết khiêm nhường, sám hối, hơn những tâm hồn trong sạch và đầy nhân đức như thiên thần nhưng lại kiêu ngạo, thích khinh chê người khác. Người trước sẽ được Cha nâng lên, còn người sau sẽ bị Cha hạ xuống. Xin cho con dù thánh thiện hay nhân đức tới đâu, dù chức vụ có cao cả tới đâu, cũng vẫn luôn khiêm nhường và yêu thương mọi người, nhất là biết nâng đỡ những người hèn kém hơn mình.


_________________________

Một số câu Kinh thánh được giới thiệu nhưng không trưng dẫn trong bài. Xin trưng ra đây để tiện cho những ai muốn đào sâu thêm:

[a*] [b*] Is 8,23b => «Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơ-vu-lun và đất Náp-ta-li, nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Gio-đan, vùng đất của dân ngoại.»
[c*] Tv 147,6 =>  «Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen.»
[d*] Hc 33,12 =>  «Kẻ thì được Người nâng cao và giáng phúc, kẻ thì được Người thánh hoá và cho ở bên, còn kẻ khác bị Người nguyền rủa và hạ xuống thấp, lật nhào họ khỏi chỗ đứng của họ.»
[e*] Ed 17,24 =>  «Tất cả cây cối ngoài đồng ruộng sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa. Ta hạ thấp cây cao và nâng cao cây thấp, Ta làm cho cây xanh tươi phải khô héo và cây khô héo được xanh tươi.»
[f*] Ed 21,31 =>  «Đức Chúa là Chúa Thượng phán : mũ tế sẽ bị lột, vương miện sẽ bị tước. Mọi sự đều thay đổi : cái thấp được nâng cao, cái cao bị hạ thấp.»
[g*] Mt 21,33-46 =>  «(33) Các ông hãy nghe một dụ ngôn khác: “Có gia chủ kia trồng được một vườn nho; chung quanh vườn, ông rào giậu; trong vườn, ông khoét bồn đạp nho, và xây một tháp canh. Ông cho tá điền canh tác, rồi trẩy đi xa. (34) Gần đến mùa hái nho, ông sai đầy tớ đến gặp các tá điền để thu hoa lợi. (35) Bọn tá điền bắt các đầy tớ ông: chúng đánh người này, giết người kia, ném đá người nọ. (36) Ông lại sai một số đầy tớ khác đông hơn trước: nhưng bọn tá điền cũng xử với họ y như vậy. (37) Sau cùng, ông sai chính con trai mình đến gặp chúng, vì nghĩ rằng: “Chúng sẽ nể con ta”. (38) Nhưng bọn tá điền vừa thấy người con, thì bảo nhau: “Ðứa thừa tự đây rồi! Nào ta giết quách nó đi, và đoạt lấy gia tài nó!” (39) Thế là chúng bắt lấy cậu, quăng ra bên ngoài vườn nho, và giết đi. (40) Vậy xin hỏi: Khi ông chủ vườn nho đến, ông sẽ làm gì bọn tá điền kia?” (41) Họ đáp: “Ác giả ác báo, ông sẽ tru diệt bọn chúng, và cho các tá điền khác canh tác vườn nho, để cứ đúng mùa, họ nộp hoa lợi cho ông”. (42) Ðức Giêsu bảo họ: “Các ông chưa bao giờ đọc câu này trong Kinh Thánh sao? Tảng đá thợ xây nhà loại bỏ lại trở nên tảng đá góc tường. Ðó chính là công trình của Chúa, công trình kỳ diệu trước mắt chúng ta.  (43) Bởi đó, tôi nói cho các ông hay: Nước Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ lấy đi không cho các ông nữa, mà ban cho một dân biết làm cho Nước ấy sinh hoa lợi. (44) Ai ngã xuống đá này, kẻ ấy sẽ tan xương; đá này rơi trúng ai, sẽ làm người ấy nát thịt”.  (45) Nghe những dụ ngôn Người kể, các thượng tế và người Pharisêu hiểu là Người nói về họ. (46) Họ tìm cách bắt Người, nhưng lại sợ đám đông, vì đám đông cho Người là một ngôn sứ.»
[h*] Mt 22,1-14 =>  «(1) Ðức Giêsu lại dùng dụ ngôn mà nói với họ rằng: (2) Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. (3) Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc cưới, nhưng họ không chịu đến. (4) Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ: “Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng: Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới!” (5) Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi: kẻ thì đi thăm trại, người thì đi buôn, (6) còn những kẻ khác lại bắt các đây tớ của vua mà sỉ nhục và giết chết. (7) Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu hủy thành phố của chúng. (8) Rồi nhà vua bảo đầy tớ: “Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. (9) Vậy các ngươi đi ra các nẻo đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới”. (10) Ðầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách. (11) “Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, (12) mới hỏi người ấy: “Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới?” Người ấy câm miệng không nói được gì. (13) Bấy giờ, nhà vua bảo những người phục dịch: “Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng! (14) Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít”.»
[i*] Ga 13,34 =>  «Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.»
[j*] Is 9,1 =>  «Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng ; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.»
[k*] Is 8,23b =>  «Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơ-vu-lun và đất Náp-ta-li, nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Gio-đan, vùng đất của dân ngoại.»
[l*] Lc 18,9-14 =>  «(9) Ðức Giêsu còn kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là công chính mà khinh chê người khác: (10) “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện. Một người thuộc nhóm Pharisêu, còn người kia làm nghề thu thuế. (11) Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. (12) Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con”. (13) Còn người thu thuế thì đứng đàng xa, thậm chí chẳng dám ngước mắt lên trời, nhưng vừa đấm ngực vừa thưa rằng: “Lạy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi”. (14) Tôi nói cho các ông biết: người này, khi trở xuống mà về nhà, thì đã được nên công chính rồi; còn người kia thì không. Vì phàm ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”.»
[m*] Lc 10,15 =>  «Còn ngươi nữa, hỡi Caphácnaum, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ phải nhào xuống tận âm phủ!»






No comments:

Post a Comment