Thursday, April 16, 2020

Ps2a - Đức tin đích thực không phải là thứ đức tin chỉ tuyên xưng mạnh mẽ ngoài miệng




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 2 Mùa Phục Sinh

(19-4-2020)


Đức tin đích thực
không phải là thứ đức tin
chỉ tuyên xưng mạnh mẽ ngoài miệng



ĐỌC LỜI CHÚA

  Cv 2, 42-47: (42) Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Ðồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng.

  1Pr 1, 3-9: (3) Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Ðức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, (4) để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai.



  TIN MỪNG: Ga 20, 19-31

Ðức Giêsu hiện ra với các môn đệ

(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Ðức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em! (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.

(24) Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Ðiđymô, không ở với các ông khi Ðức Giêsu đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: Chúng tôi đã được thấy Chúa! Ông Tôma đáp: Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin. (26) Tám ngày sau, các môn đệ Ðức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Ðức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: Bình an cho anh em. (27) Rồi Người bảo ông Tôma: Ðặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Ðưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Ðừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin. (28) Ông Tôma thưa Người: Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con! (29() Ðức Giêsu bảo: Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!

(30) Ðức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.



CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1.   Người cứng tin như Tôma có gì hay hơn kẻ tin dễ dàng không? 
2.   Người thời đại có dễ tin như những người thời đại trước không? Người thời đại sau thì sao? Tại sao lại như vậy? 
3.   Có cần phải thay đổi phong cách rao giảng Tin Mừng cho những thế hệ con cháu chúng ta không? Tại sao? Một cách thực tế phải thay đổi thế nào?


Suy tư gợi ý:

1.  Tôma là một mẫu người có tính thực nghiệm

Khi chưa đích thực gặp lại thân xác đã sống lại của Ðức Giêsu, thì ngoài Tôma ra, các tông đồ khác dường như không cảm thấy có vấn đề gì trong việc tin Ngài đã sống lại. Các ông đã tỏ ra tương đối dễ tin. Nhưng riêng Tôma, ông không tin dễ dàng như thế, vì từ xưa đến nay, ông chưa hề nghe nói có một ai tự mình sống lại từ cõi chết bao giờ. Cứ bình thường mà xét, phải nói rằng Tôma khôn ngoan và thận trọng hơn các tông đồ khác.

Ðối với người như Tôma, Ðức Giêsu đã không phiền trách gì về sự cứng lòng tin của ông. Ngài chỉ nói một câu rất nhẹ nhàng để bổ túc cho sự cứng tin hợp lý ấy: «Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!» (Ga 20,29). Và Ðức Giêsu đã cho phép Tôma được xỏ tay vào lỗ đinh ở tay và lỗ đòng đâm ở cạnh sườn Ngài. Nhưng có lẽ chính nhờ như thế mà Tôma sẽ tin chắc vào sự sống lại của Ngài hơn ai hết. Người cứng tin, một khi đã tin, thì sẽ tin rất vững. Còn kẻ quá dễ tin thì cũng sẽ dễ dàng mất niềm tin, hoặc cũng sẽ dễ dàng tin những điều khác dù chưa đủ nền tảng để tin.


2.  Con người thời nay và nhất là những thế hệ sau sẽ càng ngày càng có tính thực nghiệm giống như Tôma

Ngày nay, con người đã bước vào kỷ nguyên của khoa học kỹ thuật, nên con người chịu ảnh hưởng của tinh thần khoa học thực nghiệm rất nhiều. Tinh thần khoa học thực nghiệm chính là tinh thần của Descartes (1596-1650): «Chỉ tin sau khi đã chứng minh». Và tinh thần ấy được thể hiện thành chủ trương nghi ngờ có phương pháp và phổ quát (doute méthodique et universel) của ông. Nghi ngờ để tìm tòi hầu đi đến kết luận chắc chắn. Tinh thần khoa học thực nghiệm ấy đòi hỏi con người trước khi đi đến một kết luận, cần phải trải qua ba giai đoạn: nhận xét, đưa ra giả thuyết, và thí nghiệm kiểm chứng như đòi hỏi của Claude Bernard (1813-1873).

Tinh thần ấy chính là tinh thần của Tôma, chính vì thế, các nhà khoa học Công giáo đã nhận thánh Tôma làm bổn mạng của các nhà khoa học. Riêng bản thân tôi, người viết bài này, cũng rất thích sự cứng tin của Tôma, và coi đó như một đức tính rất cần thiết để sự phán đoán và lời nói của mình có giá trị, đáng tin. Sự đáng tin không chỉ đòi hỏi đức tính chân thật, mà còn đòi hỏi sự phán đoán chính xác và chắc chắn. Một người hết sức thật thà không bao giờ muốn lừa dối ai, nhưng lại dễ tin và hay bị lường gạt, thì phán đoán và lời nói của người ấy không còn đáng tin nữa. Thiết tưởng những người rao giảng chân lý, ngoài đức tính chân thật, cần phải có sự chững chạc trong cách phán đoán để trở nên đáng tin trước mặt mọi người.


3.   Ðối tượng phúc âm hóa trong tương lai là những thế hệ có đầu óc khoa học thực nghiệm như Tôma

Những nhà truyền giáo hiện nay tại Việt Nam thường thuộc lứa tuổi giao thời giữa hai thời đại: thời khoa học chưa ảnh hưởng mạnh và thời khoa học ảnh hưởng rất mạnh trên lề lối suy nghĩ của con người. Thời trước, người ta dễ tin những ai được mọi người cho là có uy tín (như các giám mục, linh mục, tu sĩ, hoặc ông bà cha mẹ, cô dì chú bác). Trẻ con dễ tin vào những điều người lớn nói, không đặt vấn đề điều đó đáng tin tới mức nào. Nhưng thời nay và nhất là những thế hệ mai sau, người ta không dễ tin như thế nữa. Họ thường đòi hỏi «nói có sách, mách có chứng». Muốn họ tin thì phải có bằng chứng. Nếu không chứng minh bằng sự kiện thì ít nhất phải chứng minh được sự khả tín của điều mình nói. Ngoài ra, lập luận phải vững chắc, trình bày rõ ràng. Vì thế, thời nay, việc rao giảng Tin Mừng hay sứ điệp Kitô giáo không thể theo phương cách cũ mang nặng tính giáo điều được.

Ngày xưa, tại Việt Nam, trình độ văn hóa giữa linh mục và giáo dân có sự chênh lệch rất cao. Ngày nay, sự chênh lệch ấy giảm đi rất nhiều, thậm chí không còn nữa. Rất nhiều giáo dân có trình độ văn hóa cao hơn những linh mục bình thường. Tuy nhiên các linh mục vẫn thường hơn giáo dân trong những kiến thức về thần học, giáo lý, v.v... vì người giáo dân hiện nay không được quan tâm đào tạo về mặt này, hoặc không có điều kiện để quan tâm. Vì thế, các linh mục thường đảm trách việc loan báo và rao giảng Tin Mừng cho giáo dân và người ngoại. 

Nhưng vì trình độ văn hóa của người bình thường ngày càng cao hơn, nên việc rao giảng Tin Mừng không còn dễ dàng như ngày xưa. Ðiều ấy đòi hỏi những người rao giảng Tin Mừng cũng phải có một tinh thần khoa học thực nghiệm trong cách rao giảng, cần chú trọng đến những bằng chứng xác thực, những lý luận chặt chẽ, cho dù đức tin không phải đến từ những thứ ấy. Nhưng nếu không chú trọng đến những thứ ấy, lời rao giảng sẽ bị từ chối ngay từ đầu.



4.   Hội nhập văn hóa theo chiều dọc

Tại châu Á, Giáo Hội đã thành công rất khiêm nhường trong việc truyền giáo, và không thành công rực rỡ như ở châu Âu. Một phần khá lớn là do thiếu hội nhập văn hóa (nghĩa là thiếu thích ứng với cung cách văn hóa của người thụ giáo), vì trước đây, có sự khác biệt về văn hóa giữa dân tộc truyền giáo với dân tộc được truyền giáo. Ngày nay, với việc toàn cầu hóa, sự khác biệt về văn hóa giữa các dân tộc bị giảm thiểu rất nhiều, nên việc hội nhập văn hóa theo chiều ngang không còn cần thiết và quan trọng như xưa. 

Trái lại, thời nay, sự khác biệt về văn hóa giữa thế hệ trước với thế hệ sau ngày càng gia tăng. Lề lối suy nghĩ của các thế hệ sau càng ngày càng thấm nhuần tinh thần khoa học thực nghiệm hơn. Vì thế, nếu không có sự thích ứng khôn ngoan của thế hệ phúc âm hóa (thế hệ trước) với thế hệ được phúc âm hóa (thế hệ sau) trong việc diễn tả sứ điệp, chắc chắn việc phúc âm hóa sẽ thất bại. Do đó, hiện nay việc hội nhập văn hóa theo chiều dọc cần được Giáo Hội quan tâm và thực hiện nhiều hơn là hội nhập văn hóa theo chiều ngang.


5.  Rao giảng bằng việc làm đi đôi với rao giảng bằng lời nói

Tinh thần khoa học thực nghiệm của con người thời đại đòi hỏi những dấu chứng cụ thể mới tin được. Do đó, những xác quyết trong rao giảng cần được chứng tỏ bằng thực tế đời sống

Thật vậy, ai mà tin được cái Tin mà chúng ta rao giảng là Tin Mừng khi chúng ta rao giảng nó với bộ mặt buồn so, ảo não? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Giải Phóng khi mà người rao giảng nó vẫn sẵn sàng khom lưng làm nô lệ cho người, cho vật, cho sự này sự khác, hoặc cho chính bản thân? Ai mà tin được Tin Mừng này là Tin Mừng Cứu Ðộ khi mà nó không làm cho người người rao giảng nó hoặc theo nó sống tốt hơn, có tình có nghĩa hơn, và hạnh phúc hơn những người bình thường khác?

Thiết tưởng đã tới lúc chúng ta  những ai còn tha thiết với tiền đồ của Kitô giáo cần đặt lại vấn đề sống đạo một cách nghiêm túc hơn và hãy thành thật với chính lòng mình. Nếu ta cảm thấy Kitô giáo trong thực tế đã không đem lại một thứ hạnh phúc tự tại cho chúng ta, không tạo được một động lực đủ mạnh để thúc đẩy ta sống tốt đẹp hơn người ngoài, mà ta vẫn cứ mạnh miệng rao giảng như là một tôn giáo tốt nhất, hữu hiệu nhất, thì việc rao giảng của chúng ta đúng là một sự lừa dối có hệ thống. Nếu như thế chúng ta phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về sự lừa dối ấy. 

Chúng ta tưởng mình có đức tin, nhưng trong thực tế, đức tin ấy đã chết hay mất đi từ lâu mà ta tưởng là ta vẫn còn đức tin. Vì đức tin không phải là một chấp nhận xuông, hay chỉ là hành động tuyên xưng ngoài miệng, mà là một cái gì tự nhiên ảnh hưởng rất sâu xa vào đời sống, khiến ta thay đổi cách suy nghĩ và hành động nên tốt đẹp hơn, và đời sống ta hạnh phúc hơn rất nhiều. Nếu không được như thế, đức tin mà ta tưởng rằng ta có, không phải là đức tin đích thực.



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, rất nhiều khi con chê trách Tôma là quá cứng tin, và tự hào mình dễ tin hơn nhiều. Nhưng trong thực tế, đức tin của con chẳng ảnh hưởng gì trên cuộc sống con bao nhiêu, nó chẳng làm con hạnh phúc hơn người không đức tin, chẳng làm con sống tốt đẹp và yêu thương hơn họ. Xin cho con nhận ra đức tin ấy chưa phải là đức tin đích thật: vì nó chỉ là thứ đức tin tuyên xưng mạnh mẽ ngoài miệng, được chấp nhận một cách lý thuyết, chứ không thể hiện qua đời sống thực tế. Xin Cha hãy ban cho con đức tin đích thực có khả năng thay đổi con người của con, làm con nên thật sự tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Amen.

Nguyễn Chính Kết




Monday, April 6, 2020

Psb - Làm sao để được biến đổi thành «con người mới»?




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật Phục Sinh

(12-04-2020)

Bài đào sâu

Làm sao để được biến đổi thành «con người mới»?



  TIN MỪNG: Mt 28,1-10

Ngôi mộ trống



Câu hỏi gợi ý:
1. Bạn đã trải qua bao nhiêu mùa Chay và mùa Phục sinh rồi? Qua những mùa ấy, bạn có thật sự được biến đổi để thực hiện «con người mới»  không? Nếu không thì tại sao? Cần phải biết rõ nguyên nhân. 
2. Muốn được biến đổi thật sự nên «con người mới», đâu là điều quan trọng có tính quyết định và tất yếu? Đâu là những điều không quan trọng? 
3.  Thiên thần nói: «Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết?» Ta có thể tìm gặp Đức Giêsu khi quá chú trọng đến những phương tiện để gặp Ngài không?

Suy tư gợi ý:

1.  Qua một mùa Chay, ta đã thấy mình được biến đổi chưa?

Hôm nay là lễ Phục Sinh. Thế là chúng ta đã qua mùa Chay thánh, mùa của ăn năn sám hối, của cải thiện đời sống. Nếu ta sống mùa Chay đúng với tinh thần phải có của mùa Chay, chắc hẳn ta đã cảm thấy mình như được phục sinh trở lại về mặt tâm linh, nghĩa là trở thành «con người mới» như Thánh Phaolô khuyến khích ta (Ep 4,24; Cl 3,10). Nhưng ta thử xét lại xem dịp lễ Phục Sinh này, ta có trở thành «con người mới» thật sự không? Ta đã sống lại cùng với Đức Giêsu Phục Sinh chưa? Cuộc đời ta đã thật sự thay đổi chưa?

Cuộc đời Kitô hữu của ta đã trải qua không biết bao nhiêu là mùa Chay, còn được gọi là «mùa Xuân của Giáo Hội», với bao nhiêu cuộc tĩnh tâm, cấm phòng, canh thức… Nhưng nhìn lại bản thân, nhiều khi ta thấy mình chẳng được biến đổi bao nhiêu. Đáng lẽ mỗi dịp mùa Chay, ta phải tiến lên một bước trên con đường tâm linh. Nhưng hỡi ôi, đôi lúc ta thấy mình như thụt lùi, tình trạng tâm linh của ta hiện nay đôi khi không bằng ngày xưa. Nếu có tiến bộ, thì chẳng bao nhiêu, nghĩa là dường như ta chẳng thay đổi gì cả hay chẳng thay đổi bao nhiêu. Nhất là ta chưa cảm nhận được một sức mạnh đến từ bên trong giúp sống thánh thiện hơn, yêu thương hơn, vui tươi hạnh phúc hơn, đúng như một Kitô hữu đáng lý phải như thế.

Tóm lại, bản thân tôi hiện nay, dù trải qua bao nhiêu mùa Chay và mùa Phục sinh, dường như vẫn chỉ là «con người cũ» (Rm 6,6; Ep 4,22; Cl 3,9), chưa hề được biến đổi ra «con người mới» bao giờ.



2.  Quá trình phải có để biến đổi

Làm việc gì, muốn thành công cũng đều phải có phương pháp, phải tuân theo một quá trình hợp lý và hữu hiệu. Vậy phải theo phương pháp hay quá trình nào mới có thể biến từ con người cũ sang con người mới? Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu cho ta hai điều quan trọng,

a) Quá trình biến đổi:

Đức Giêsu được biến đổi thành thân thể phục sinh bằng cách chịu đau khổ và chết đi. Ngài nói trước điều ấy: «Con Người phải bị nộp vào tay phường tội lỗi, và bị đóng đinh vào thập giá, rồi ngày thứ ba sống lại» (Lc 24,7)Chỉ sau khi chết đi, Ngài mới có thể sống lại. Ngài đã từng nói bóng gió về quá trình này, «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi mãi chỉ là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Do đó, muốn biến đổi «con người cũ» thành «con người mới», thì điều kiện không thể không có là «con người cũ» phải chết đi.

«Con người cũ» ở đây phải được hiểu là «cái tôi ích kỷ» mà ta luôn luôn muốn bảo vệ, muốn đề cao, muốn tất cả mọi người mọi sự phải quy hướng về, muốn là «cái rốn» của vũ trụ, muốn phình to lên để đè bẹp và lấn át những «cái tôi» khác… «Con người cũ» ấy phải chết đi, thì «con người mới» kia mới sinh ra được

«Chết đi» ở đây không hiểu theo nghĩa đen, mà theo nghĩa tâm linh. «Chết đi» là dù nó đang có, dù ta đang cảm nghiệm nó một cách rất rõ ràng, ý thức về nó một cách rất sâu sắc, nhưng ta hãy coi nó như không có, như nó chẳng là gì cả, như nó không đáng ta phải quá bận tâm. Và tích cực hơn nữa là thái độ sẵn sàng chấp nhận để «cái tôi» ấy bị đau khổ, bị hạ giá, bị mất đi, bị quên lãng, thậm chí bị hủy diệt để ích lợi cho Thiên Chúa và tha nhân. Làm như thế là thực hiện tinh thần xóa mình, quên mình, từ bỏ mình của Đức Giêsu. Ngài đã từng nói: «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo» (Mt 16,24; Mc 8,34; Lc 9,23).

Thái độ tự xóa này phải là một thái độ chân thành, nghĩa là phải luôn luôn sẵn sàng trở thành hành động thực tế. Điều hết sức nghịch lý là khi «cái tôi» của ta càng sẵn sàng xóa mình, chấp nhận đau khổ hay bị hủy diệt, thì Thiên Chúa và tha nhân càng thấy «cái tôi» ấy của ta giá trị lên, và «cái tôi» ấy càng cảm thấy tràn đầy sức sống, sự mạnh mẽ của Thiên Chúa. Đúng như lời của thánh Phanxicô Assi: «Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân… chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời» (chữ chết đi và vui sống muôn đời ở đây nên hiểu là một thái độ sống, chứ đừng hiểu theo nghĩa đen, mặc dù nghĩa đen cũng có phần đúng).

Bản thân hay con người ta phải trống đi «cái tôi», cùng với những thứ liên quan tới nó như «ý muốn của tôi», «ý kiến của tôi», chỉ khi ấy Thiên Chúa mới lấp đầy bản thân ta bằng sức mạnh của Ngài được. Làm trống rỗng «cái tôi» ấy là cách khôn ngoan nhất để nhận được sức mạnh vô biên của Thiên Chúa

Hãy dùng một minh họa để dễ hiểu. Giả như ta có một bình nước đang đựng một chất nước không đáng giá. Bây giờ ta muốn dùng nó để đựng một chất nước quý giá gấp ngàn lần. Lúc đó ta phải làm sao? Người khôn ngoan sẽ đổ hết tất cả nước cũ ra ngoài hầu có thể đổ vào đó tối đa thứ nước quý giá kia. Cũng vậy, bản thân ta như cái bình, muốn nhận được sức mạnh vô song của Thiên Chúa thì phải đổ bỏ hoàn toàn nước cũ kém giá trị kia đi là «cái tôi» của ta. Chỉ cần còn lại một ít nước cũ trong bình thì chất nước mới sẽ kém chất lượng và không thể chiếm trọn dung tích bình được.

Tóm lại, muốn cho «con người mới» sinh ra, thì «con người cũ» phải chết đi. «Chết đi» được thực hiện trong tinh thần (chứ không phải bằng thân xác) là sẵn sàng chấp nhận đau khổ, nhục nhã, thiệt thòi, bất an, vì tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Còn là «con người cũ», ta chỉ có được những hạnh phúc mau qua được xây dựng bằng những thực tại trần gian. Trở thành «con người mới» ta sẽ đạt được bình an và hạnh phúc siêu nhiên, bền vững, không ai lấy mất được (x. Ga 16,22; Rm 8,38-39), và tâm hồn ta mạnh mẽ hơn lên rất nhiều (x. Mt 11,12; Cv 1,8; 4,33; Pl 4,13).

Điều tôi khám phá ra và trở thành một kinh nghiệm quí báu của tôi, đó là khi tôi sẵn sàng chấp nhận bất cứ thứ đau khổ nào xảy đến, thậm chí phải chết đau đớn và nhục nhã, thì khó có điều gì xảy đến có thể làm tôi đau khổ. Vì sẵn sàng chấp nhận như thế, nên tôi phần nào trở nên «vô úy», không sợ hãi những điều mà trước đây tôi luôn luôn lo sợ. Nhờ vậy, tôi thấy tâm hồn mình mạnh mẽ hơn lên rất nhiều. Hóa ra càng sẵn sàng chấp nhận đau khổ, thì nghịch cảnh càng khó làm cho mình đau khổ. Và điều kỳ diệu hơn nữa là nghịch cảnh dường như ít xảy đến với tôi hơn. Các bạn cứ thử thí nghiệm như tôi đi, tôi nghĩ các bạn cũng sẽ thấy như vậy.

b) Bí quyết biến đổi:

Thiên thần hỏi các bà đến thăm mộ Đức Giêsu: «Sao các bà lại tìm Người Sống ở giữa kẻ chết?» (Lc 24,5). Đây là một thái độ thông thường của rất nhiều Kitô hữu. Chúng ta muốn tìm sự sống, nhưng lại tìm ở những nơi, những thực tại không sự sống. Sự sống phát xuất từ Đức Giêsu, từ chính bản thân Ngài, từ Thần Khí của Ngài, hơn là từ lý thuyết của Ngài hay của bất kỳ ai, hơn là từ những công việc của Ngài. Vì thế, muốn tìm sự sống, ta phải gắn bó với bản thân Ngài, tiếp xúc thật sự với chính Ngài, trở nên một với Ngài, chứ không phải với bất kỳ cái gì khác với Ngài, dù là giáo lý của Ngài, lời nói của Ngài, những lý thuyết nói về Ngài

Chỉ có Ngài hay Thần Khí của Ngài mới có thể ban cho ta sự sống chứ không phải những thứ khác. Giáo lý của Ngài, lời nói của Ngài, những lý thuyết nói về Ngài chỉ là những phương tiện ban đầu giúp ta hiểu Ngài, đến với Ngài, và nhờ đó ta kết hiệp được với Ngài, chứ những thứ đó không hề có khả năng đem lại sự sống cho chúng ta. Những thứ đó thường chỉ ví như những «văn tự chết». Thánh Phaolô nói: «Chữ viết thì giết chết, còn Thần Khí mới ban sự sống» (2Cr 3,6)


Tôi không phủ nhận sự cần thiết của giáo thuyết, giáo lý hay thần học, của các bí tích, các lễ nghi… Nhưng tất cả những thứ ấy chỉ là những phương tiện dẫn ta đến với Thiên Chúa hay Đức Giêsu. Tất cả những thứ ấy tuyệt đối không thể ban cho ta sự sống hay sức mạnh. Nếu ta dùng tất cả những phương tiện ấy mà không nhắm gặp được chính bản thân Đức Giêsu, thì tất cả đều trở nên vô ích. Còn nếu ta quyết tâm tìm gặp chính Đức Giêsu, gặp chính Ngài, cảm nghiệm được Ngài, kết hiệp với Ngài, thì ta mới nhận được sự sống từ Ngài, mà không nhất thiết phải nhờ một phương tiện cố định nào.

Thật vậy, rất nhiều khi ta dâng thánh lễ, hay rước lễ chỉ là để dâng thánh lễ hay rước lễ, chứ không phải là để gặp Đức Giêsu. Tâm trí ta bị thu hút bởi thánh lễ, bởi việc rước lễ, chứ không phải bởi việc gặp Đức Giêsu. Chúng ta bị thu hút hoàn toàn bởi phương tiện ta dùng, mà quên đi chính mục đích. Chính vì thế, rất nhiều khi ta đến với phép Thánh Thể, đến với Thánh Lễ, rước lễ mà chẳng gặp được Đức Giêsu. 

Muốn gặp Đức Giêsu, ta phải tìm chính bản thân Đức Giêsu, Ngài rất dễ tìm, vì Ngài hiện diện khắp nơi, trong các tạo vật, nhất là nơi những người sống chung quanh ta, và nơi cung lòng của chính chúng ta.



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, con chỉ có thể trở thành «con người mới» khi «con người cũ» của con chết đi. Xin giúp con chết đi con người ích kỷ của con, để con người vị tha của con có thể sinh ra.

Nguyễn Chính Kết



Bấm vào đây để trở về bài chia sẻ: 
Chúa phục sinh, tâm hồn ta cũng phải phục sinh thành con người mới (https://chiasethanhuu.blogspot.com/2020/04/psa.html)

Thật sự gặp gỡ Đức Giêsu, con người tự động biến đổi thành con người mới
(x. Lc 19,1-10)



Psa - Chúa phục sinh, tâm hồn ta cũng phải phục sinh thành con người mới


cfff
CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật Phục Sinh

(12-04-2020)


Chúa phục sinh, tâm hồn ta
cũng phải phục sinh
thành con người mới




ĐỌC LỜI CHÚA

  St 1,1–2,2: (27) Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa.

  Xh 14,15–15,1a: (30) Ngày đó, Đức Chúa đã cứu Ítraen khỏi tay quân Aicập. (31) Toàn dân kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Môsê, tôi trung của Người.

  Rm 6,3-11: (8) Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người : đó là niềm tin của chúng ta. 


  TIN MỪNG: Mt 28,1-10

Ngôi mộ trống

(1) Sau ngày sabát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mácđala và một bà khác cũng tên là Maria, đi viếng mộ. (2) Thình lình, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; (3) diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. (4) Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy chết ngất đi. (5) Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: «Này các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Đức Giêsu, Đấng bị đóng đinh. (6) Người không có ở đây, vì Người đã trỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, (7) rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã trỗi dậy từ cõi chết, và Người đi Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Đấy, tôi xin nói cho các bà hay». (8) Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Đức Giêsu hay.

(9) Bỗng Đức Giêsu đón gặp các bà và nói: «Chào các chị em!» Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân, và bái lạy Người. (10) Bấy giờ, Đức Giêsu nói với các bà: «Chị em đừng sợ! Hãy về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó».



CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1.   Việc Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng gì trên đời sống của bạn không? 
2.   Đã bao giờ biến cố Đức Giêsu sống lại làm cho bạn thật sự thay đổi con người bạn chưa?

3.   Muốn được sống lại với Đức Giêsu trong tâm hồn, nghĩa là trở nên con người mới, con người sống theo Thần Khí, điều cần thiết và cụ thể là ta phải làm gì?

Suy tư gợi ý:


1.  Đức Giêsu sống lại, một biến cố vĩ đại


Hôm nay, chúng ta hân hoan kỷ niệm ngày Đức Giêsu phục sinh. Ngài phục sinh sau khi chịu khổ nạn, chết trên thập tự và mai táng trong mồ. Đó quả là một biến cố vĩ đại, làm nền tảng cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô nói: «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng, và cả đức tin của anh em cũng trống rỗng» (1Cr 15,14); «Nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em. Hơn nữa, cả những người đã an nghỉ trong Đức Kitô cũng bị tiêu vong. Nếu chúng ta đặt hy vọng vào Đức Kitô chỉ vì đời này mà thôi, thì chúng ta là những kẻ đáng thương hơn hết mọi người» (1Cr 15,17-19).



2.  Ngài sống lại thì ích lợi gì cho cuộc sống hiện sinh của tôi?

Nhưng thử hỏi biến cố Đức Giêsu sống lại có ảnh hưởng hay ích lợi gì cho đời sống hiện sinh của tôi, nghĩa là đời sống thực tế bây giờ và tại đây của tôi? Biến cố này có ảnh hưởng trên đời sống của tôi, hay nó chỉ là một kỷ niệm được lập lại hàng năm, chỉ để tưởng nhớ một biến cố đã hoàn toàn qua đi? Vì biết bao năm phụng vụ trôi qua, năm nào cũng có Tuần Thánh, cũng có lễ Phục Sinh, mà nào tôi có thay đổi gì đâu! 

Chuyện Đức Giêsu sống lại với một đời sống mới, con người mới, cách hiện hữu mới, tất cả đều đã trở thành quá khứ, chẳng có ảnh hưởng gì trên hiện tại của tôi, nên tôi vẫn sống với con người cũ, cách sống cũ, chẳng có gì thay đổi! Phải vậy chăng, hay việc Ngài sống lại vẫn là một biến cố hiện sinh, vẫn có khả năng biến cải đời tôi?


Nếu Ngài chỉ sống lại trong lịch sử, cách đây 2000 năm, mà không sống lại trong lòng tôi, thì việc sống lại ấy ích lợi gì cho tôi? Vấn đề quan trọng là Ngài phải sống lại trong tâm hồn tôi. Và vấn đề ấy tùy thuộc ở tôi rất nhiều, ở quan niệm và thái độ nội tâm của tôi đối với việc sống lại của Ngài.




3.  Ngài sống lại để biến ta thành con người mới

Đức Giêsu sống lại là để đem lại cho chúng ta sự sống mới, và trở nên những con người mới, ngay bây giờ và chính tại đây, như thánh Phaolô nói: «Nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới» (Rm 8,11)

Điều quan trọng là làm sao có được sự sống mới ấy? Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn cho biết: Thần Khí làm cho Đức Giêsu sống lại, cũng chính Thần Khí ấy sẽ biến cải chúng ta nên con người mới, với sức sống mới. Chỗ khác, thánh Phaolô nói: «Thiên Chúa đã làm cho Chúa Kitô sống lại; chính Người cũng sẽ dùng quyền năng của mình mà làm cho chúng ta sống lại» (1Cr 6,14)

Nhưng vấn đề cụ thể là chúng ta phải làm gì để Thần Khí ấy biến cải chúng ta nên con người mới?




4.  Muốn nên con người mới, con người cũ phải chết đi

Đức Giêsu chỉ sống lại sau khi chết đi, nên ta chỉ có được sự sống mới sau khi chết đi con người cũ. Vì thế, muốn có sự sống mới, muốn trở nên con người mới, ta phải cùng chết với Đức Giêsu, chết với tất cả những thói hư tật xấu và tội lỗi của con người cũ. Thánh Phaolô viết: «Chúng ta biết rằng, con người cũ nơi chúng ta đã bị đóng đinh vào thập giá với Đức Kitô, như vậy, con người do tội lỗi thống trị đã bị huỷ diệt, để chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa» (Rm 6,6). Thánh Phaolô còn nói rõ hơn: «Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện» (Ep 4,22-24).



5.  Con người cũ là con người ích kỷ, cần được lột bỏ

Như vậy, để có được sự sống mới, ta phải dứt khoát từ bỏ con người cũ, là con người ích kỷ, chỉ nghĩ tới mình, lo cho mình, chỉ quan tâm tới hạnh phúc và đau khổ của chính mình, không quan tâm gì tới ai, không lo cho ai. Nếu đã lấy mình làm trung tâm thì sẽ coi mọi người chỉ là phương tiện. Có diệt trừ thói ích kỷ, là nguyên nhân mọi tội lỗi, chúng ta mới có được sự sống mới. Thánh Phaolô viết: «Nếu sống nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em thì anh em sẽ được sống» (Rm 8,13).

Sự sống mới là một sự sống phong phú, nhưng lại đòi hỏi một sự lột xác, một tinh thần tự hủy, như Đức Giêsu từng nói: «Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn mãi là hạt lúa; còn nếu chết đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác» (Ga 12,24). Tương tự, hạt nguyên tử, nếu không bị phá hủy, nó sẽ mãi mãi là một nguyên tử nhỏ bé, im lìm, bất động, không làm nên một công lực hữu ích nào; nhưng nếu bị phá hủy, nó sẽ phát sinh một năng lượng khủng khiếp, có thể làm nên những thành tựu lớn lao. Cũng vậy, khi ta phá hủy «cái tôi ích kỷ» của ta, thì «cái tôi» ấy không hề mất đi, mà chuyển hóa thành một thực tại mới, con người mới, vĩ đại, cao quí, và sức sống của con người mới ấy sẽ phong phú, mạnh mẽ và có ý nghĩa hơn lên ngàn lần.




6.  Một nghịch lý thực tế 

Đừng tưởng cứ ôm khư khư lấy «cái tôi ích kỷ» của mình, chăm chút lo cho nó, thì nó sẽ có một sức sống phong phú, tốt đẹp và hạnh phúc. Trái lại, càng quá quan tâm đến nó, thì lại càng làm cho sức sống của nó hạn hẹp lại, càng làm giảm bớt giá trị và hạnh phúc của nó. Đức Giêsu nói: «Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời» (Ga 12,25)

Kinh nghiệm cho ta thấy: những kẻ ích kỷ, chỉ lo lắng cho bản thân mình, không bao giờ được hạnh phúc và cũng chẳng làm cho ai hạnh phúc. Họ không bao giờ hài lòng với chính họ, với những gì họ đang có. Và càng tìm kiếm thêm cho mình, càng lo cho bản thân mình nhiều hơn, thì họ càng lún sâu vào đau khổ hơn. Trái lại, những vị thánh, những người sống quên mình, xả thân, lại là những người cảm thấy hạnh phúc nhất, mặc dù xem ra họ có vẻ bị thiệt thòi nhất, phải chịu khổ cực nhiều hơn ai hết.




7. Con người mới là con người vị tha, biết yêu thương 

Con người mới được thánh Phaolô xác định: «Con người mới là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa» (Ep 4,24); «con người mới là con người đổi mới luôn luôn để nên giống như hình ảnh Đấng dựng nên mình» (Cl 3,10). Như vậy, con người mới chính là con người hoàn nguyên, nghĩa là trở về với tình trạng tốt đẹp nguyên thủy khi được Thiên Chúa tạo dựng, trước khi con người phạm tội. Đó là con người phản ánh trung thực bản chất của Thiên Chúa, là Tình Yêu

Vậy, để có một đời sống mới, một tinh thần mới, để trở nên con người mới, với một sức mạnh mới, ta cần có một quyết tâm từ bỏ con người cũ là con người ích kỷ, chỉ quan tâm lo cho bản thân mình, để mặc lấy con người mới là con người sống vị tha, sống yêu thương, sống vì tha nhân

Khi ta quyết tâm như thế, với một ý chí cương quyết, lập tức, Thánh Thần Thiên Chúa, Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại, sẽ tiếp sức với ta, biến đổi ta nên con người mới. Điều quan trọng và tối cần thiết là ta phải quyết tâm từ bỏ nếp sống vị kỷ để sống đời sống vị tha, sống yêu thương. Sau đó, «hãy để Thần Khí canh tân đổi mới anh em thấu tận trí khôn» (Ep 4,23); «Hãy để cho Thiên Chúa biến hóa anh em cho tâm trí anh em đổi mới» (Rm 12,2)

Nếu ta tiếp tục quảng đại, Ngài sẽ biến đổi ta một cách toàn diện, từ quan niệm, cách suy nghĩ, đến cách ăn nói, hành động để trở thành con người mới thực thụ. Có như thế, việc sống lại của Đức Giêsu mới thật sự ích lợi cho đời sống Kitô hữu của ta.




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, đã bao năm qua, con mừng Đức Giêsu phục sinh chỉ như kỷ niệm một biến cố hoàn toàn quá khứ, chẳng ăn nhập gì tới đời sống cụ thể của con. Vì thế, đã bao năm, con chẳng có gì thay đổi. Nhưng năm nay, con quyết tâm trở nên một con người mới, một con người sống vị tha, yêu thương mọi người. Xin Thánh Thần của Cha hãy biến đổi con.


Monday, March 30, 2020

LeLab - Với tình yêu và sự dũng cảm cao độ, Đức Giêsu xứng đáng là Vua mọi tâm hồn




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật Lễ Lá

(05-04-2020)

Bài đào sâu

Với tình yêu và sự dũng cảm cao độ, 
Đức Giêsu xứng đáng là Vua mọi tâm hồn



  TIN MỪNG: Mt 27, 11-54

Cuộc tử nạn của Đức Giêsu



Câu hỏi gợi ý:
1. Philatô có tìm cách tha cho Đức Giêsu không? Tại sao ông lại không tha được? Ông can đảm ở điểm nào và hèn nhát ở điểm nào? Nếu ở địa vị của ông ta, tôi có hành xử khá hơn ông không? Nếu ông ta ở địa vị của tôi hiện nay khi đối diện với những bất công, ông sẽ hành xử kém hay khá hơn tôi?

2. Tình yêu và lòng dũng cảm của Đức Giêsu thế nào? Ngài có xứng đáng là Vua Nước Trời, tức vương quốc tình yêu không? Để là công dân trong Nước Ngài, thì tình yêu và lòng dũng cảm có cần thiết không? Cần thiết đến mức nào?

3. Muốn có tình yêu và lòng dũng cảm theo gương Đức Giêsu, ta phải làm gì?


Suy tư gợi ý:

1.  Thái độ hèn nhát của Philatô

Trong bài Thương Khó, Philatô hỏi Đức Giêsu: «Ông là vua dân Do Thái sao?» (Mt 27,11). Là một vị quan và một nhà chính trị của đế quốc, ông có bổn phận phải xác định lập trường chính trị của Đức Giêsu. Vì thế, xác nhận mình là vua trước mặt Philatô là một điều khá nguy hiểm, thậm chí đến tính mạng, thế mà Đức Giêsu vẫn xác định như thế (x. Mt 27,11b). Tuy nhiên Ngài cũng xác định thêm: «Nước tôi không thuộc về thế gian này» (Ga 18,36). Chính vì xác định này mà Philatô nhận thấy Ngài không phải là một người đối lập nguy hiểm cho đế quốc Rôma.

Phải nói rằng Philatô cũng có ít nhiều lương tâm khi dám lên tiếng bênh vực Đức Giêsu. Ông hỏi các thượng tế và kỳ mục: «Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác?» (Mt 27,23); và ông xác định Ngài vô tội: «Ta không tìm thấy lý do nào để kết tội người này» (Ga 18,38). Và ông đã thật sự tìm cách tha cho Đức Giêsu bằng cách đưa một tên cướp nổi tiếng ra cùng với Ngài để dân chúng lựa chọn tha cho ai. Ông không ngờ được là dân chúng lại chọn tha cho Baraba (x. Mt 27,21). Quả là Philatô có phần nào hèn nhát khi đành phải chiều theo ý dân chúng để Đức Giêsu bị giết. Nhưng phải nói rằng ông đã tìm đủ cách để tha Đức Giêsu. Điều ông hy vọng cuối cùng để dựa vào đó làm cơ sở tha cho Ngài là chính Đức Giêsu tự lên tiếng biện hộ cho mình. Ông khuyến khích Đức Giêsu làm điều ấy: «Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao?» (Mt 27,13). Nhưng hy vọng của ông tắt ngấm khi thấy «Đức Giêsu không trả lời về một điều nào» (Mt 27,14), sự im lặng này «khiến ông rất đỗi ngạc nhiên» (nt), và làm cho ông không còn lý do nào mạnh mẽ để tha cho Ngài.

Chúng ta có thói quen kết án Philatô là hèn nhát, và ông ta quả là như thế. Nhưng nếu tự xét mình, thì chính chúng ta, nhất là những người có quyền lên tiếng trước công chúng, hay có nghĩa vụ phải bảo vệ công lý, có thể sẽ nhận ra mình hèn nhát hơn Philatô rất nhiều. Thật vậy, đôi khi ta biết chắc chắn một ai đó là vô tội, thậm chí là người bênh vực Giáo Hội, bảo vệ chân lý hay công lý, nhưng bị kết án oan ức. Thế mà chúng ta đành chấp nhận thái độ hoàn toàn câm lặng, ngay cả một câu như Philatô: «Tôi không thấy người này có tội gì!» (Lc 23,14), chúng ta cách không đủ can đảm nói lên được, cho dù có nói thì ta cũng chỉ bị phiền hà đôi chút chứ chẳng đến nỗi nào. Vì thế, mạnh miệng kết án Philatô là hèn nhát, chúng ta không thể không cảm thấy ngượng ngùng.



2.  Thái độ dũng cảm của Đức Giêsu

Trái với Philatô, sợ bị mất chức, sợ bị phiền nhiễu mà đành để Đức Giêsu bị xử án bất công, Đức Giêsu sẵn sàng chịu đau khổ, chịu chết để cứu mọi người, để làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương. Ngài sẵn sàng bênh vực các em nhỏ khi các tông đồ muốn la rầy xua đuổi chúng (x. Lc 18,15-17), Ngài dám chữa lành những con bệnh đến với Ngài cả vào ngày nghỉ lễ bất chấp sẽ bị phiền hà rất nhiều bởi những kẻ đạo đức giả (x. Ga 5,1-18; 9,1-41; Lc 6,6-11; 13,10-17; 14,1-6)

Tình yêu và sự dũng cảm của Ngài đã được thánh Phaolô tóm gọn trong bài đọc 2: «Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự» (Pl 2,6-8). Tình yêu to tát đối với con người khiến Ngài không sợ bị mất địa vị, mất hạnh phúc đang có, mà sẵn sàng chịu đau khổ, chịu hủy diệt. Vì thế, Ngài rất xứng đáng là Vua trong Nước Trời, vương quốc của chân lý, công lý và tình yêu. Tư cách Vua Nước Trời đòi hỏi một tình yêu cao cả và một sự dũng cảm to tát như vậy.

Cũng vậy, để là công dân của Nước Trời, chúng ta cũng phải noi gương tình yêu và sự dũng cảm của Ngài. Nếu không, chúng ta sẽ không xứng đáng là công dân của vương quốc ấy. Làm sao chúng ta có thể vào vương quốc của tình yêu khi ta không có tình yêu hay không đủ tình yêu để có thể dũng cảm hy sinh chút ít theo sự đòi hỏi của tình yêu? Trong vương quốc của tình yêu, sự có mặt của những người không có tình yêu hay có quá ít tình yêu –nếu có– sẽ làm ô nhiễm môi trường tinh khiết ấy, và biến nó trở lại thành trần gian điên loạn này!



3.  Để có được tình yêu và sự dũng cảm theo gương Đức Giêsu

Để xứng đáng vào Nước Trời, điều tối cần là chúng ta không những phải có tình yêu mà còn phải thể hiện tình yêu bằng lòng dũng cảm nữa. Đức Giêsu nói: Để vào Nước Trời, «ai cũng phải dùng sức mạnh mà vào» (Lc 16,16). «Sức mạnh» ở đây chính là sự dũng cảm của tình yêu

Có dũng cảm trong tình yêu mới chứng tỏ tình yêu ấy là tình yêu đích thực, không chỉ trên môi miệng. Muốn có tình yêu và lòng dũng cảm ấy, ta phải thật sự nhận Đức Giêsu làm vua của tâm hồn mình. Nhận Ngài làm vua của lòng mình có nghĩa là coi mệnh lệnh của Ngài lên trên hết tất cả, sẵn sàng thi hành thánh ý của Ngài với bất cứ giá nào. Khi quyết tâm như thế và thường xuyên lập lại quyết tâm ấy hằng giờ hằng phút, đến nỗi nó trở thành ý thức thường hằng trong tâm trí ta, tâm hồn ta sẽ tự động được biến đổi nên giống Ngài. 

Như thế, nhận Ngài làm vua của tâm hồn mình, chính là chấp nhận để «cái tôi» của mình chết đi, cùng với tất cả ý riêng của nó. Chỉ khi «cái tôi» ấy thật sự chết đi, nghĩa là trở nên «đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người» (Pl 3,10), thì nó mới được phục sinh hay biến đổi thành «cái tôi» mới, «đồng hình đồng dạng với Người trong tình yêu và sự dũng cảm của Người». Chính khi ta thật sự tôn Ngài làm vua của tâm hồn ta, ta sẽ thấy mình thật mạnh mẽ, và sức mạnh ấy phát xuất từ chính Ngài.



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Cha đã ban Đức Giêsu, Con của Cha, cho nhân loại, để nhân loại «được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10): dồi dào bình an và hạnh phúc, dồi dào tình yêu và sức mạnh. Nhưng con người có được sống dồi dào hay không lại tùy thuộc vào việc con người có để cho Đức Giêsu làm vua trong tâm hồn mình hay không. Con người thường để «cái tôi» của mình, hoặc tiền bạc, danh vọng… làm vua tâm hồn mình. Nay hạ bệ những thứ ấy xuống để tôn Ngài làm vua là cả một cuộc «đảo chính», một cuộc «đổi đời», một cuộc «cách mạng» vĩ đại của bản thân. Nhưng nếu không nhất quyết thực hiện cuộc cách mạng ấy, thì dứt khoát con người không thể sống dồi dào như họ mong muốn. Xin Cha giúp con thực hiện được cuộc cách mạng bản thân ấy.

Nguyễn Chính Kết




LeLaa - Đức Giêsu, nạn nhân của sự ganh tị và hèn nhát của con người




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật Lễ Lá

(05-04-2020)


Đức Giêsu, nạn nhân của sự ganh tị và hèn nhát của con người



ĐỌC LỜI CHÚA

  Mt 21,1-11: (9) Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: Hoan hô Con vua Ðavít ! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Ðức Chúa ! Hoan hô trên các tầng trời. (10) Khi Ðức Giêsu vào Giêrusalem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau : Ông này là ai vậy ? (11) Dân chúng trả lời : Ngôn sứ Giêsu, người Nadarét, xứ Galilê đấy.

  Is 50,4-7: (6) Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.

  Pl 2,6-11: (8) Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. 




  TIN MỪNG: Mt 27,11-54 (Bài thương khó)

Ðức Giêsu ra trước toà tổng trấn Philatô

(11) Ðức Giêsu bị điệu ra trước mặt tổng trấn; tổng trấn hỏi Người: Ông là vua dân Dothái sao? Ðức Giêsu trả lời: Chính ngài nói đó. (12) Nhưng khi các thượng tế và kỳ mục tố Người, thì Người không trả lời một tiếng. (13) Bấy giờ ông Philatô hỏi Người: Ông không nghe bao nhiêu điều họ làm chứng chống lại ông đó sao? (14) Nhưng Ðức Giêsu không trả lời ông về một điều nào, khiến tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên.


(15) Vào mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn có lệ phóng thích cho dân chúng một người tù, tuỳ ý họ muốn. (16) Mà khi ấy có một người tù khét tiếng, tên là Baraba. (17) Vậy khi đám đông đã tụ họp lại, thì tổng trấn Philatô nói với họ: Các ngươi muốn ta phóng thích ai cho các ngươi đây? Baraba hay Giêsu, cũng gọi là Kitô? (18) Bởi ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người.

(19) Lúc tổng trấn đang ngồi xử án, thì bà vợ sai người đến nói với ông: Ông đừng nhúng tay vào vụ xử người công chính này, vì hôm nay, tôi chiêm bao thấy mình phải khổ nhiều vì ông ấy.

(20) Nhưng các thượng tế và kỳ mục lại xúi đám đông đòi tha tên Baraba mà giết Ðức Giêsu. (21) Tổng trấn hỏi họ: Trong hai người này, các người muốn ta tha ai cho các người? Họ thưa: Baraba! (22) Tổng trấn Philatô nói tiếp: Thế còn ông Giêsu, cũng gọi là Kitô, ta sẽ làm gì đây? Mọi người đồng thanh: Ðóng đinh nó vào thập giá! (23) Tổng trấn lại nói: Thế ông ấy đã làm điều gì gian ác? Họ càng la to: Ðóng đinh nó vào thập giá! (24) Tổng trấn Philatô thấy đã chẳng được ích gì mà còn thêm náo động, nên lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy! (25) Toàn dân đáp lại: Máu hắn cứ đổ xuống đầu chúng tôi và con cháu chúng tôi! (26) Bấy giờ, tổng trấn phóng thích tên Baraba cho họ, còn Ðức Giêsu, thì ông truyền đánh đòn, rồi trao cho họ đóng đinh vào thập giá.


Ðức Giêsu phải đội vòng gai

(27) Bấy giờ lính của tổng trấn đem Ðức Giêsu vào trong dinh, và tập trung cả cơ đội quanh Người. (28) Chúng lột áo Người ra, khoác cho Người một tấm áo choàng đỏ, (29) rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Người một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo rằng: Vạn tuế Ðức Vua dân Dothái! (30) Rồi chúng khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy mà đập vào đầu Người. (31) Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, và cho Người mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá.


Ðức Giêsu chịu đóng đinh vào thập giá

(32) Ðang đi ra, thì chúng gặp một người Kyrênê, tên là Simôn; chúng bắt ông vác thập giá của Người. (33) Khi đến nơi gọi là Gôngôtha, nghĩa là Ðồi Sọ, (34) chúng cho Người uống rượu pha mật đắng, nhưng Người chỉ nếm một chút mà không chịu uống. (35) Ðóng đinh Người vào thập giá xong, chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau. (36) Rồi chúng ngồi đó mà canh giữ Người.

(37) Phía trên đầu Người, chúng đặt bản án xử tội viết rằng: Người này là Giêsu, vua dân Dothái. (38) Cùng bị đóng đinh với Người, có hai tên cướp, một tên bên phải, một tên bên trái.


Ðức Giêsu bị nhục mạ

(39) Kẻ qua người lại đều nhục mạ Người, vừa lắc đầu (40) vừa nói: Mi là kẻ phá được Ðền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào! (41) Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Người mà nói: (42) Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Ítraen! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! (43) Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa! (44) Cả những tên cướp cùng bị đóng đinh với Người cũng sỉ vả Người như thế.


Ðức Giêsu trút linh hồn

(45) Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín. (46) Vào giờ thứ chín, Ðức Giêsu kêu lớn tiếng: Êli, Êli, lêma xabácthani , nghĩa là Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con? (47) Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: Hắn ta gọi ông Êlia! (48) Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. (49) Còn những người khác lại bảo: Khoan đã, để xem ông Êlia có đến cứu hắn không! (50) Ðức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.

(51) Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Ðền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Ðất rung đá vỡ. (52) Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy. (53) Sau khi Chúa trỗi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh, và hiện ra với nhiều người. (54) Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Ðức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và nói: Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Trong thâm tâm, các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái và Philatô có nhìn nhận Ðức Giêsu là vô tội không? Tại sao họ lại kết án Ngài?

2. Philatô rửa tay để làm gì? Ông muốn chứng tỏ điều gì? Có thật là ông vô can trong việc đổ máu Ðức Giêsu không?

3. Trong đời sống thường ngày, chúng ta có hành động theo kiểu các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái và Philatô không?

Suy tư gợi ý:

1.  Ðức Giêsu bị án tử hình, dù ai cũng nhận thấy Ngài vô tội

Cả cuộc đời Ðức Giêsu, Ngài không làm một điều gì nên tội, nhưng Ngài đã bị kết án ở mức độ nặng nhất: tử hình. Lý do chính khiến Ngài bị kết án chính là sự ganh ghét của giới lãnh đạo tôn giáo (x. Mt 27,18), và sự hèn nhát của cơ quan công quyền mà đại diện là Philatô. Giới lãnh đạo tôn giáo biết Ngài vô tội: 

Các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Ðồng tìm chứng gian buộc tội Ðức Giêsu để lên án tử hình. Nhưng họ tìm không ra, mặc dầu có nhiều kẻ đã đứng ra làm chứng gian (Mt 26,59-60). Nhưng họ quyết tâm giết Ngài vì Ngài được dân chúng mến phục và ủng hộ: việc đón rước Ngài vào thành long trọng chứng tỏ điều ấy. Dân chúng còn đánh giá giáo huấn của Ngài cao hơn của họ: «Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Ðấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư» (Mc 1,22). Ảnh hưởng của Ngài trên dân chúng ngày càng lớn, lấn át ảnh hưởng của họ, và họ cảm thấy điều ấy rất nguy hiểm cho chiếc ghế cũng như quyền lợi của họ. Vì thế, để tự bảo vệ, họ quyết tâm giết Ngài, vì Ngài, mặc dù chẳng làm chi sai trái, đã trở thành đối thủ rất nguy hiểm của họ.

Họ muốn giết Ngài, nhưng họ không thể tự ý làm điều ấy, vì làm như thế họ sẽ bị chính quyền truy tố trước pháp luật. Họ đã khôn ngoan bằng cách dùng chính tay chính quyền để giết Ngài. Và họ đã thành công. Philatô ‒ kẻ đại diện cho công lý, pháp quyền của đế quốc Rôma ‒ biết Ngài vô tội: ông thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Người (Mt 26,27). Nhưng ông hèn nhát không dám tha Ngài vì sợ quần chúng đang bị giới lãnh đạo tôn giáo sách động. Ông lo sợ nguy hiểm cho chiếc ghế của mình, và ông đã chủ trương thà bảo vệ chiếc ghế hơn bảo vệ công lý.

Ðiều đó cũng có thể thông cảm được với một người ngoại giáo như ông, vốn không được giáo dục tâm linh như các nhà lãnh đạo tôn giáo. Nhưng điều đáng ghê tởm là sự thiếu thẳng thắn và giả hình của ông: ông «lấy nước rửa tay trước mặt đám đông mà nói: Ta vô can trong vụ đổ máu người này. Mặc các người liệu lấy!» (Mt 27,24). Ông là đại diện cho công lý mà không chịu lên tiếng bênh vực công lý, để cho công lý bị chà đạp. Tội của ông rành rành ra đấy: đồng loã với sự ác để giết một người vô tội, nhưng ông lại muốn được mọi người coi là vô tội. Ông muốn biện minh cho hành động vô trách nhiệm của mình. 

Thật ra, cứ nhận rằng mình hèn nhát, mình ham địa vị thì lại đỡ tội, nhưng ông lại còn muốn tỏ ra mình vô tội, nên tội ông nặng lên rất nhiều. Tương tự như ý nghĩa của câu: «Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng : "Chúng tôi thấy", nên tội các ông vẫn còn!» (Ga 9,41). Trước mặt Thiên Chúa, chính cái tội giả hình, muốn tỏ ra mình vô tội ấy còn nặng hơn tội hèn nhát và vô trách nhiệm kia rất nhiều. Khi tôi còn nhỏ, hễ tôi phạm một lỗi nào, cha tôi chỉ đánh một hai roi, nhưng nếu đã phạm mà lại chối, thì lỗi nặng lên gấp hai ba lần, có thể bị phạt tới 5 hay 10 roi, vì đã phạm tới hai lỗi, mà lỗi sau nặng hơn rất nhiều.



2.  Ta có hành động như Philatô hay các tư tế không?

Thấy người lại nghĩ đến ta. Ta thấy Ðức Giêsu đã bị giết bởi giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái vì lòng ganh tị của họ và bởi Philatô vì sự hèn nhát của ông. Nhưng liệu ta có hành động như thế đối với các ngôn sứ đồng thời với mình không? Có thể ta sẽ nói như bọn kinh sư ngày xưa: «Nếu như chúng ta sống vào thời của tổ tiên, hẳn chúng ta đã không thông đồng với các ngài mà đổ máu các ngôn sứ» (Mt 23,29). Nhưng họ có ngờ đâu họ lại phạm chính tội mà tổ tiên họ đã phạm, cái tội mà họ đang dựa vào để chê trách tổ tiên. Và họ còn phạm nặng nề hơn tổ tiên họ rất nhiều, vì họ giết chính Ðấng Mêsia mà họ đang trông chờ. Tại sao? Chỉ vì cái mối tội muốn bảo vệ cái ghế của mình hơn bảo vệ công lý, mối tội ấy họ cũng có không kém gì cha ông mình. Và cái mối tội thứ hai còn lớn hơn thế nữa là đã có tội, lại còn muốn chứng minh mình vô tội. Khi muốn chứng minh mình vô tội, hay muốn biện minh cho tội của mình, người ta dễ có khuynh hướng tìm cho ra một tội nào đấy để gán ghép cho kẻ vô tội mà mình không muốn bênh vực, hầu chứng tỏ sự im lặng hay kết án của mình là hợp lý.

Rất có thể ta cũng đang hành động như thế trong đời sống thường ngày của ta. Nhiệm vụ làm chứng ‒tức chức năng ngôn sứ‒ mà ta đã lãnh nhận khi lãnh bí tích rửa tội, thêm sức, hoặc truyền chức đòi buộc ta phải làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương. Nhiệm vụ hay chức năng ấy đòi hỏi ta phải sống đúng điều mình chủ trương và rao giảng. 

Ta rao giảng rằng những thực tại siêu nhiên, những giá trị tâm linh cao quí hơn những thực tại trần gian, thậm chí hơn cả mạng sống: «Ðược cả thế giới mà mất linh hồn thì ích lợi gì?» (Mt 16,26). Nhưng trong đời sống thực tế, qua hành động và cách sống của ta, ta lại đích thực coi những thực tại trần gian cao quí hơn những thực tại mà ta vô cùng đề cao khi rao giảng. Ta sẵn sàng hy sinh những giá trị tâm linh để đổi lấy những thực tại cụ thể của trần gian: tiền bạc, quyền lực, địa vị, lạc thú. Ðể bảo vệ những thứ ấy, ta sẵn sàng phạm chính cái tội của các vị lãnh đạo tôn giáo Do Thái sẵn sàng hãm hại hoặc giết những Ðức Kitô trong chính thời đại của chúng ta, hoặc của Philatô xưa đã im lặng đồng lõa để người vô tội bị hãm hại. Những Ðức Kitô ấy có thể là những kẻ thấp cổ bé miệng đang chịu đủ thứ bất công trong xã hội cũng như Giáo Hội, có thể là những người công chính mà sự có mặt hay hành động của họ đang ảnh hưởng bất lợi cho cái ghế của ta.

Nếu nhận ra mình đang lỗi bổn phận làm chứng theo chức năng ngôn sứ của người Kitô hữu, ta hãy thành thực nhận lỗi của mình và tìm cách sửa chữa. Không nên làm như Philatô, đã có tội lại còn muốn chứng tỏ mình vô tội, khiến ta lại càng lún sâu hơn vào tội lỗi hơn.



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, con là người yếu đuối, con rất dễ trở nên hèn nhát. Ðiều đó chắc hẳn Cha, cũng như Ðức Giêsu, rất dễ cảm thông và tha thứ cho con. Nhưng xin đừng để con hành động như Philatô, đã hèn nhát không dám bênh vực người vô tội, để mặc người vô tội bị giết, lại còn rửa tay để chứng tỏ mình vô tội. Xin đừng để con mắc tội giả hình như thế, là tội mà Ðức Giêsu ghét hơn tất cả mọi thứ tội. Amen.