Thursday, March 19, 2020

Chay4a - Giữa luật lệ và tình yêu, điều nào quan trọng hơn?




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay

(22-3-2019)

Giữa luật lệ và tình yêu,
điều nào quan trọng hơn?



ĐỌC LỜI CHÚA

  1Sm 16,1b.6-7.10-13a: (7) Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm: người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Thiên Chúa thì thấy tận đáy lòng.

  Ep 5,8-14: (8) Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng; (9) mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.

  TIN MỪNG: Ga 9,1.6-9.13-16.34-38

Ðức Giêsu chữa một người mù từ thuở mới sinh

(1) Ði ngang qua, Ðức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. (6) Nói xong, Ðức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, (7) rồi bảo anh ta: «Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa. Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được».

(8) Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: «Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?» (9) Có người nói: «Chính hắn đó!» Kẻ khác lại rằng: «Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!» Còn anh ta thì quả quyết: «Chính tôi đây».

(13) Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. (14) Nhưng ngày Ðức Giêsu trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sabát. (15) Vậy, các người Pharisêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: «Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy». (16)Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: «Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát»; kẻ thì bảo: «Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?» Thế là họ đâm ra chia rẽ. (33) Anh ta nói: «Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì». (34)Họ đối lại: «Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?» Rồi họ trục xuất anh.

(35) Ðức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: «Anh có tin vào Con Người không?» (36) Anh đáp: «Thưa Ngài, Ðấng ấy là ai để tôi tin?» (37) Ðức Giêsu trả lời: «Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây». (38)Anh nói: «Thưa Ngài, tôi tin». Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Luật Môsê do Thiên Chúa ban hành kết án rất nặng những người lỗi luật sabát. Tại sao Ðức Giêsu lại dám chữa bệnh trong ngày lề luật cấm làm việc? Ngài không tuân hành luật lệ chính Chúa Cha ban hành sao? Ngài làm gương xấu chăng? Ngài hành động theo nguyên tắc nào? 
2. Lề luật có phải là mục đích của con người không? Mục đích của lề luật là gì? Giữa mục đích của lề luật và chính lề luật, cái nào trọng hơn? Con người phải thực hiện cái nào?

Suy tư gợi ý:

1.  Ðức Giêsu xem ra không nghiêm chỉnh giữ luật Môsê

Một trong những lý do khiến cho người ta không nhận ra các vị ngôn sứ trong thời đại của mình là các ngôn sứ ấy có vẻ như không sống đúng theo quan niệm triết học, thần học hay đạo đức của người đương thời. Người ta có lý của người ta. Lý của họ căn cứ trên sách vở đàng hoàng, họ cũng «nói có sách, mách có chứng» chứ không phải vô căn cứ. Thật vậy, một trong những điều khiến các kinh sư Do Thái không nhận ra Ðức Giêsu chính là Ðấng Cứu Thế mà họ đang trông chờ, vì họ lý luận: «Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát» (Ga 9,16).

Luật Môsê chỉ định rõ ràng phải thi hành thật nghiêm chỉnh luật nghỉ ngày sabát. Sách Xuất hành viết: «Ngày thứ bảy là ngày sabát kính Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi. Ngày đó, ngươi không được làm công việc nào, cả ngươi cũng như con trai con gái, tôi tớ nam nữ, gia súc và ngoại kiều ở trong thành của ngươi» (Xh 20,10). Vi phạm ngày sabát là một trọng tội đáng tử hình: «Các ngươi phải giữ ngày sabát, vì đó là ngày thánh đối với các ngươi. Kẻ nào vi phạm điều ấy, thì sẽ bị xử tử; phải, kẻ nào làm việc trong ngày ấy, sẽ bị khai trừ khỏi dân nó» (Xh 31,14; xem 35,2; Ðnl 5,14). Như vậy, theo quan niệm của các kinh sư Do Thái, một người xuất phát từ Thiên Chúa ắt phải tuân giữ luật sabát thậm chí nghiêm chỉnh hơn họ. Nghĩ như thế xem ra rất hợp lý.

Thế mà Ðức Giêsu lại chữa bệnh trong ngày sabát, là điều không được phép làm trong ngày ấy, mà câu chuyện trong bài Tin Mừng hôm nay là một điển hình. Dưới mắt các kinh sư Do Thái, Ngài đã vi phạm luật này không phải chỉ có lần này, mà đã rất nhiều lần (xem Mt 12,1-2; 12,12-13; Lc 13,13; 14,3-4; Ga 5,8-11; 9,14). Nếu chiếu theo luật Môsê, Ngài đáng bị tử hình. Vì thế, rất nhiều lần họ tìm cách hãm hại và giết Ngài là để thi hành luật Môsê (xem Mt 12,14; Mc 3,6; 11,8; 12; v. v.)

Ðể tránh hành động theo kiểu các kinh sư Do Thái, nhất là đối với những ngôn sứ của thời đại, chúng ta cần hiểu rõ hơn về lề luật.



2.  Vai trò và giới hạn của lề luật

Trong xã hội cũng như Giáo Hội, không thể không có lề luật. Lề luật làm cho xã hội có tôn ti trật tự, nhờ đó có an ninh, tính mạng, của cải của mọi người được tôn trọng và bảo đảm. Trong tôn giáo, lề luật giúp mọi người thực hiện được lý tưởng của tôn giáo, là bản đồ chỉ dẫn con người tiến bộ trong lãnh vực tâm linh. Nói chung, trong xã hội con người, dù nhỏ bé như gia đình, hội đoàn, hay lớn lao như quốc gia, thế giới, xã hội nào cũng cần có luật lệ.

Tuy nhiên, luật lệ không phải là một cái gì tuyệt đối mà tất cả mọi người phải tuân theo trong tất cả mọi trường hợp. Có những điều còn cao trọng hơn lề luật: đó là tình yêu được phản ánh nơi lương tâm. Theo luân lý Kitô giáo, người Kitô hữu phải coi mệnh lệnh của lương tâm đã được giáo dục của mình hơn cả luật của chính Giáo Hội, và đương nhiên cả luật đời nữa

Luật tối thượng là luật của Thiên Chúa, mà luật của Thiên Chúa có mục đích là thể hiện Tình Yêu Thương, được biểu hiện nơi lương tâm ngay thẳng của con người. Ðối với cá nhân, lương tâm ngay thẳngtiêu chuẩn cuối cùng mà con người phải theo khi có những xung đột giữa các tiêu chuẩn phải theo, trong đó có lề luật. Sách Giáo lý chung viết: «Con người luôn luôn phải vâng theo phán đoán chắc chắn của lương tâm mình» (số 1800).



3.  Luật lệ vì con người, chứ không phải con người vì lề luật

Trong Kitô giáo, luật lệ không phải là những nguyên lý tuyệt đối phải tuân theo, nó chỉ là một phương tiện bất toàn, vì trong nhiều trường hợp, phương tiện này lại đi ngược lại với mục đích

Xin đan cử một trường hợp mà tôi đã từng gặp: 

Một buổi chiều Chúa nhật nọ, một lương y ở một vùng quê rất hiếm thầy thuốc đang chuẩn bị đi lễ Chúa nhật vì sáng ông chưa đi, thì có một bệnh nhân sốt rét đến năn nỉ hết lời xin ông chữa bệnh, vì bệnh thì nặng mà nhà thì quá xa, vả lại trời sắp tối. Nhưng nghĩ tới luật Giáo Hội buộc nặng phải đi dự lễ, ông ta đã quyết liệt từ chối mặc cho người bệnh ra sao thì ra, sau khi đã giải thích rõ lý do là ông phải giữ luật của Giáo Hội. 

Trường hợp này, ông thầy thuốc tuy giữ đúng luật Giáo Hội, nhưng lại hành động ngược lại với cốt tủy và mục đích của lề luật là tinh thần yêu thương (mến Chúa và yêu người)

Một trường hợp khác: luật Chúa đòi hỏi người Kitô hữu phải luôn luôn nói sự thật, vì sự dối trá thường gây thiệt hại cho tha nhân hoặc cho chính mình. Mục đích của luật này là thực hiện đức ái. Nhưng trong một số trường hợp cá biệt (chẳng hạn bí mật quốc gia, hay khi bị kẻ địch điều tra về đồng bạn cùng chiến đấu cho lý tưởng, hay thầy thuốc với bệnh nhân ung thư), lời nói thật có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội, cho ích lợi chung, hay cho người vô tội, thì trong trường hợp đó, việc nói sự thật đi ngược lại với mục đích của luật buộc nói sự thật. Những trường hợp tương tự như thế, người Kitô hữu không nên câu chấp vào lề luật. Chính Đức Giêsu nói: «Ngày sabát (hay lề luật) được làm ra vì con người, chứ không phải là con người được dựng nên vì ngày sabát (hay lề luật)» (Mc 2,27).

Theo thánh Phaolô thì «Lề Luật là thánh và điều răn cũng là thánh, đều đúng và tốt» (Rm 7,12; 1Tm 1,8) vì nó diễn tả ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng cũng theo Phaolô, «lề luật không phải được lập ra cho những người công chính» (1Tm 1,9), mà cho những người còn yếu đuối, non nớt về trí huệ, về tâm linh. Vì thế, không thể căn cứ vào việc giữ lề luật nghiêm chỉnh của một người mà cho rằng người ấy là công chính. Thật vậy, thánh Phaolô viết: «Sự công chính không hệ tại việc giữ luật pháp, vì nếu như vậy thì cái chết của Ðức Kitô trở nên vô ích» (Gl 2,21). Sự công chính đòi hỏi một cái gì cao hơn nữa. Về vấn đề này, thánh Phaolô nói rất rõ và rất nhiều: «Không ai được nên công chính trước mặt Thiên Chúa nhờ Lề Luật, đó là điều hiển nhiên, vì người công chính sống bởi đức tin» (Gl 3,11); «Trước nhan Chúa, không người phàm nào được nhìn nhận là công chính vì đã làm những gì Luật dạy. Luật chẳng qua chỉ làm cho người ta ý thức về tội» (Rm 3,20); «Người ta được nên công chính vì tin chứ không phải vì làm những gì luật dạy» (Rm 3,28), v.v.



4.  Sự lợi hại của lề luật

Lề luật có thể là một con dao hai lưỡi: một đằng rất cần thiết và có lợi cho tâm linh, nhưng đằng khác có những bất lợi. Chẳng hạn khi người ta giữ luật một cách hoàn hảo thì họ lại dễ ỷ vào đó để tự hào, kiêu căng, tự cho mình là công chính, như trường hợp người Pharisiêu vào đền thờ cầu nguyện cùng với người thu thuế (xem Lc 18,9-14). Chính sự tự hào đó đã phá đổ tất cả mọi công trình giữ luật của ông. 

Một nhược điểm khác của lề luật là: tuy soi sáng cho tâm trí, nhưng lại không đem lại sức mạnh nội tâm để sống theo sự soi sáng đó. Người ta có thể biết rất rõ lề luật dạy phải làm thế này thế kia, nhưng không vì biết rõ luật mà người ta có động lực thúc đẩy để làm những điều luật đòi buộc, mà lắm khi lại bị thúc đẩy làm những điều trái với Lề Luật. Thánh Phaolô nói lên kinh nghiệm về tình trạng này: «Ðiều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm» (Rm 7,14). Chính vì thế mà người Do Thái, tuy có Lề Luật của Thiên Chúa - tức Luật Môsê - nhưng họ cũng tội lỗi không kém gì dân ngoại (xem Rm 2,17-18.21-24).

Ðiều quan trọng mà người Kitô hữu phải củng cố chính là có tình yêu trong tâm. Trong Kitô giáo, tình yêu chính là mục đích của lề luật: lề luật giúp người ta thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Tình yêu làm cho người ta nên giống Thiên Chúa, hay nên công chính. Do đó, lề luật chỉ là phương tiện, còn tình yêu mới chính là mục đích

Ðang khi lề luật không phải là một động lực thúc đẩy người ta làm điều thiện, thì tình yêu chính là một động lực rất mạnh. Nếu theo như Phaolô, «lề luật không phải được lập ra cho những người công chính» (1Tm 1,9), thì điều đó có nghĩa là lề luật không được lập nên cho những người có tình yêu đích thực. Người có tình yêu đích thực đối với Thiên Chúa và mọi người thì chỉ cần hành động theo sự đòi hỏi hay thúc đẩy của tình yêu. Chính Ðức Giêsu hành động theo sự thúc đẩy của tình yêu chứ không theo sự soi sáng của lề luật (xem Mt 12,11-12). Thánh Âu Tinh cũng nói: «Cứ yêu đi đã rồi muốn làm gì thì làm» Ama et fac quod vis»)

Người có tình yêu đích thực tự nhiên sẽ làm đúng với lề luật. Và nếu họ có làm gì khác với lề luật, thì trường hợp đó, họ đã làm đúng hơn và cao hơn mức lề luật đòi hỏi.




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, chúng con đang sống trong một thế giới đầy bất công. Tình yêu thúc đẩy chúng con phải làm một cái gì. Nhưng có biết bao nhiêu nguyên tắc hay thông lệ của luân lý, của xã hội, của Giáo Hội, của truyền thống, của tôn giáo ngăn cản chúng con: nào là không được bạo động, không nên dùng sức mạnh, không nên làm chính trị, v.v. Nhưng người cha hay người mẹ sẽ làm gì khi đứa con nhỏ của mình gặp nguy hiểm, đang bị hãm hiếp? Họ sẽ làm theo tình yêu thúc đẩy, hay sẽ theo luật lệ của xã hội? Lạy Cha, chúng con phải làm theo cái gì, theo sự thúc đẩy của tình yêu, của lương tâm, hay theo những nguyên tắc của con người, của xã hội, thậm chí của Giáo Hội , của nhà nước đặt ra? Xin Cha hãy soi sáng cho chúng con. Ý Cha muốn thế nào?

Nguyễn Chính Kết



Bấm vào đây để trở về bài chia sẻ/để đọc bài đào sâu: . 


Wednesday, March 11, 2020

Chay3b - Thờ phượng Thiên Chúa «trong thần khí và sự thật» là gì?




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 3 Mùa Chay

(15-3-2020)

Bài đào sâu

Thờ phượng Thiên Chúa «trong thần khí và sự thật» là gì?



  TIN MỪNG: Ga 4,5-42

Ðức Giêsu tại Samari





Câu hỏi gợi ý:
1. Có thực tại trần gian nào thỏa mãn được những khát vọng vô hạn của con người không? Những thực tại siêu nhiên thì sao? Thực tại nào có thể thỏa mãn những khát vọng của con người để họ được hạnh phúc?

2. Người ta có luôn luôn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa trong kinh nguyện, trong thánh lễ, trong các bí tích không? Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa phải có những yếu tố nào?

3. Thế nào là thờ phượng, gặp gỡ Thiên Chúa trong thần khí và sự thật?

Suy tư gợi ý:

1.  Khát vọng của con người không bao giờ được thỏa mãn

Khát nước, đó là tình trạng thiếu thốn mà ai cũng đều kinh nghiệm hằng ngày. Khát nước đòi người ta phải uống nước để thỏa mãn cơn khát. Nếu không thỏa mãn, con người sẽ bị cơn khát dằn vặt rất đau khổ. Uống rồi thì hết khát, nhưng chỉ một thời gian (một tiếng hay hai tiếng sau) cơn khát lại trở lại, và cứ thế mãi. Ðói cũng tương tự như khát. 

Ngoài nước uống và thức ăn, con người còn đói khát nhiều chuyện khác: tình cảm, tình yêu, tình dục, tiếng khen, tiền bạc, địa vị, quyền lực, hiểu biết, trở nên hoàn hảo, v.v... Nhưng tất cả những thứ ấy, dù đạt được như lòng mong ước, thì con người cũng chỉ thỏa mãn một thời gian rất ngắn, để rồi lại tiếp tục cảm thấy thiếu thốn. Nếu không tiếp tục thỏa mãn, con người cảm thấy đau khổ. Khi không có chiếc xe đạp, ta cảm thấy thiếu và mong có được chiếc xe đạp. Khi đã có chiếc xe đạp, ta lại thấy thiếu và mong có chiếc gắn máy. Cứ thế, chẳng bao giờ ta hết thiếu thốn, hết đói khát, hay hết khát vọng cả. Hạnh phúc của con người vì thế chỉ luôn luôn tạm thời: được no đủ trong giây lát để rồi lại đói khát triền miên.

Như vậy, con người cứ phải nô lệ cho những cơn khát đủ loại của mình, cứ phải vất vả để tìm đủ cách thỏa mãn chúng. Trong khi tìm cách thỏa mãn chúng, nhiều khi con người phải hy sinh cả gì mình quí nhất: mạng sống, lương tâm, tình cảm vợ chồng, tình nghĩa anh em, v.v... Vì thế, cơn khát này chưa được thỏa mãn thì mình lại gây nên những cơn khát loại khác. Cứ thế mà con người lâm vào vô số những vòng luẩn quẩn trói chặt con người vào đau khổ.



2.  Làm sao để hết khát vọng? để khỏi đau khổ?

Ðức Giêsu nói: «Ai uống nước này, sẽ lại khát» (Ga 4,13). Thật vậy, những cách thỏa mãn khát vọng của con người đều chỉ là tạm thời. Ðược thỏa mãn rồi lại tiếp tục khát vọng. Khát vọng siêu đẳng nhất của con người là muốn có một giải pháp để thỏa mãn vĩnh viễn mọi khát vọng, và không còn phải khát vọng nữa. 

Làm sao có được giải pháp đó trên đời? Ðức Giêsu đã cho ta biết Ngài có giải pháp đó: «Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14). Ngài cho biết giải pháp của Ngài «sẽ trở thành một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời» nơi người dùng giải pháp ấy. Có sẵn trong người một mạch nước thì ta sẽ không bao giờ khát nữa, mà trái lại còn có thể làm thỏa mãn cơn khát của người khác. Mạch nước ấy đem lại sự sống đời đời. 

Mạch nước ấy là gì? Là chính Thiên Chúa, được hiện thân thành Ðức Kitô. Chỉ cần thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Ðức Kitô, ta sẽ có được mạch nước đem lại sự sống ấy ở trong ta. Lịch sử Giáo Hội cho thấy nhờ thật sự gặp được Thiên Chúa, các vị thánh đã được biến đổi hoàn toàn, các ngài cảm thấy hạnh phúc vô biên bất chấp nghịch cảnh, đã yêu thương và có một sức mạnh tinh thần rất lớn để dấn thân và hy sinh cho Thiên Chúa và đồng loại không mệt mỏi. Vậy vấn đề mấu chốt là có thật sự gặp gỡ Thiên Chúa hay Ðức Kitô hay không.



3.  Làm sao để thật sự gặp gỡ Thiên Chúa?

Nhiều khi ta đến để gặp Chúa trong nhà thờ, bằng đọc kinh cầu nguyện, bằng việc dâng thánh lễ, v.v... nhưng ta lại không thật sự gặp được Chúa. Ta cầu nguyện, đi lễ theo thói quen, theo giờ giấc, theo luật buộc, một cách hoàn toàn hình thức. Ta đối diện với Chúa trước nhà tạm, ta rước Chúa vào tận trong lòng mình, nhưng ta vẫn không thật sự gặp Chúa. Cũng như các kinh sĩ Do Thái xưa, họ nói chuyện với Chúa, ở bên cạnh Chúa, đối diện với Chúa, nhưng không gặp Chúa. Cổ nhân có câu: «Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng» (Có duyên với nhau thì dù xa ngàn dặm cũng vẫn gặp được nhau, không có duyên với nhau thì dù có mặt đối mặt cũng không gặp nhau)

Như thế, sự gặp gỡ thật sự đòi hỏi phải có duyên với nhau, có sự đồng cảm, sự giống nhau nào đó. Cổ nhân còn nói: «Ðồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu» (Cùng âm thanh thì phụ họa nhau, cùng tính tình, khuynh hướng, tài năng thì tìm gặp nhau). Bản chất của Thiên Chúa là tình yêu (x. 1Ga 4,8.16), nên chỉ những ai biết yêu thương nghĩa là giống Thiên Chúa mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa một cách đích thực: «Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa» (1Ga 4,7a-8). Chữ «biết» ở đây có nghĩa là cảm nghiệm, gặp gỡ Thiên Chúa. Vì thế, kẻ gian ác, kẻ ghen ghét, người không biết yêu thương thì không thể gặp được Thiên Chúa.

Ðức Giêsu nói: «Ðã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem» (Ga 4,21). Như vậy, để gặp gỡ Thiên Chúa, thì không gian tức chỗ này chỗ kia không phải là chuyện quan trọng: «Ðấng Tối Cao không ở trong những ngôi nhà do tay người phàm làm ra» (Cv 7,48; 17,24). Ðức Giêsu cũng nói: «Giờ đã đến và chính là lúc này đây những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật» (Ga 4,23). Như vậy, muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, ta cũng phải gặp gỡ Ngài «trong thần khí và sự thật».



4.  Gặp gỡ Thiên Chúa «trong thần khí và sự thật»

Ðể giải thích điều này, Ðức Giêsu nói: «Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật» (Ga 4,24). Nếu Thiên Chúa là thần khí, thì để gặp Ngài, con người cũng phải dùng thần khí của mình tức tâm hồn mình để gặp Ngài. Vì chỉ có thần khí mới gặp được và hòa nhập được với thần khí. Như vậy nghĩa là phải gặp Ngài trong chính tâm hồn mình. Thật vậy, nơi dễ gặp gỡ Thiên Chúa nhất, chính là cung lòng của mỗi người chúng ta

Không gì linh thánh bằng con người, hay tâm hồn con người, vì con người là hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,26-27; 9,6; Kn 2,23). Và cũng không nơi nào linh thiêng bằng cung lòng con người: «Nào anh em chẳng biết rằng anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao? Ðền Thờ Thiên Chúa là nơi thánh, và Ðền Thờ ấy chính là anh em» (1Cr 3,17; x. 6,19)

Có gặp được Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình, mình mới có thể gặp gỡ Thiên Chúa ở nơi khác, trong Thánh Thể, trong nhà thờ, trong tha nhân, trong thiên nhiên. Thiên Chúa ở ngay cung lòng mình mà mình không gặp được, thì mong gì gặp được Thiên Chúa ở bên ngoài? Thánh ÂuTinh đã từng than thở: «Con đã tìm Chúa ở ngoài con, nên con đã không gặp được Chúa của lòng con» (Confession, cuốn VI, chương 1).

Muốn thật sự gặp gỡ Thiên Chúa, còn phải gặp Ngài «trong sự thật» (Ga 4,24b). Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa của sự thật, vì thế, người gian dối, không thành thật với lòng mình, với mọi người, và với Thiên Chúa, thì không thể gặp được Ngài. Như vậy để thật sự gặp được Thiên Chúa, cần phải có một tâm hồn ngay thẳng, thành thật, chân chất, «có nói có, không nói không» (Mt 5,36), không quanh quéo, uẩn khúc. Không thể gặp được Thiên Chúa những người nghĩ một đằng, nói một ngả, hay nói một đằng, làm một nẻo. 

Trong việc thờ phượng Thiên Chúa, nếu hình thức bên ngoài và nội dung bên trong không phù hợp với nhau, thì đó là giả dối. Nếu những lễ nghi tôn giáo bên ngoài không phản ảnh tâm tình thật sự bên trong, thì đó là thờ phượng Thiên Chúa trong giả dối. Nếu lời kinh mình đọc ngược lại với tâm tình bên trong thì đó là giả dối trong cầu nguyện. Thiên Chúa không thích kiểu thờ phượng hay cầu nguyện như thế.




CẦU NGUYỆN

Tôi nghe thấy tiếng Chúa: «Ðã đến lúc trình độ tâm linh con người phải tiến cao hơn một bậc nữa. Con người không nên thờ phượng Thiên Chúa theo kiểu vụ hình thức, vụ không gian, vụ thời gian, vụ vật chất nữa. Con người cần thờ phượng và gặp gỡ Thiên Chúa bằng thần khí chứ không phải qua vật chất, qua hình thức nữa. Con người cần gặp gỡ Thiên Chúa ngay trong bản thân mình hơn là ở một nơi nào bên ngoài. Con người cần hiểu biết Thiên Chúa theo sự thật, bằng chính bản chất của Ngài hơn là bằng những hiện tượng, danh từ, ngôn ngữ hay cách diễn tả đặc thù của mỗi tôn giáo, mỗi nền văn hóa. Có gặp gỡ Thiên Chúa đích thực, con người mới được biến đổi để trở nên hoàn hảo và hạnh phúc hơn.» 

Nguyễn Chính Kết




Chay3a - Đức Giêsu là mạch nước hằng sống




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 3 Mùa Chay

(15-3-2020)


Đức Giêsu là mạch nước hằng sống



ĐỌC LỜI CHÚA

  Xh 17,3-7: (3) Ở sa mạc, dân khát nước nên đã kêu trách ông Môsê. Đức Chúa chỉ dạy ông: (6) «Ngươi hãy dùng gậy đập vào tảng đá kia. Từ tảng đá ấy, nước sẽ chảy ra cho dân uống». Ông Môsê đã làm như vậy trước mắt các kỳ mục Ítraen.

  Rm 5,1-2.5-8: (1) Một khi đã được nên công chính nhờ đức tin, chúng ta được bình an với Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô. (5) Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Người vào lòng chúng ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta.

  TIN MỪNG: Ga 4,5-42

Đức Giêsu tại Samari

(5) Vậy, Người đến một thành xứ Samari, tên là Xykha, gần thửa đất ông Giacóp đã cho con là ông Giuse. (6) Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.


(7)
Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy: «Chị cho tôi xin chút nước uống!» (8) Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. (9) Người phụ nữ Samari liền nói: «Ông là người Dothái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?» Quả thế, người Dothái không được giao thiệp với người Samari. (10) Đức Giêsu trả lời: «Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: «Cho tôi chút nước uống», thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống». (11) Chị ấy nói: «Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? (12) Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Giacóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy». (13) Đức Giêsu trả lời: «Ai uống nước này, sẽ lại khát. (14) Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời».


 (15) Người phụ nữ nói với Đức Giêsu: «Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước. (19b) Tôi thấy ông thật là một ngôn sứ… (20) Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa». (21) Đức Giêsu phán: «Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem. (22) Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Dothái. (23) Nhưng giờ đã đến và chính là lúc này đây giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. (24) Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật». (25) Người phụ nữ thưa: «Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự». (26) Đức Giêsu nói: «Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây».

(39) Có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu. (40) Vậy, khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. (41) Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. (42) Họ bảo người phụ nữ: «Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian».




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1.   Phụ nữ Samari này là một người không đàng hoàng về luân lý, thế mà Đức Giêsu lại dùng chị để loan báo Tin Mừng cho người Samari, và làm chứng cho Ngài ở nơi họ. Và kết quả rất tốt đẹp. Từ sự kiện này bạn có thể rút ra bài học gì?

2.   Thứ «nước uống rồi lại khát» và thứ «nước uống vào là không bao giờ khát nữa» ám chỉ điều gì?

3.   Hạnh phúc do trần gian đem lại thì thế nào? Có làm con người hạnh phúc lâu bền không? Có phát sinh những «phản tác dụng» không? Muốn có được hạnh phúc lâu bền, đích thực thì phải làm gì?


Suy tư gợi ý:

Bài Tin Mừng hôm nay dài và gồm nhiều chủ đề quan trọng khác nhau. Nhưng khi liên kết với bài đọc 1, ta nhận ra ngay Giáo Hội muốn nói đến chủ đề: Đức Giêsu, nguồn mạch nước hằng sống.


1.  Bối cảnh của bài Tin Mừng

Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đến xin nước một phụ nữ Samari. Đây là một điều cấm kỵ đối với người Do Thái: «Người Do Thái không được giao thiệp với người Samari» (Ga 4,9). Vì thế, việc tiếp xúc và xin nước của Ngài khiến cho phụ nữ này ngạc nhiên: «Ông là người Do Thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?» (Ga 4,9). Cả các tông đồ cũng ngạc nhiên không kém: «Các ông ngạc nhiên vì thấy Người nói chuyện với một phụ nữ Samari» (Ga 4,27). Không phải chỉ một lần mà khá nhiều lần Đức Giêsu đã vượt ra khỏi những quy định của tập tục xã hội, của tôn giáo, khi mà những quy định này đi ngược lại lương tri hay tình yêu tha nhân. Chính trong bối cảnh đặc biệt này, Đức Giêsu đã mặc khải một chân lý quan trọng: Ngài chính là nguồn mạch nước hằng sống.

Lúc Ngài xin chị Samari nước uống là «vào khoảng mười hai giờ trưa» (Ga 4,6), khi các môn đệ Ngài đi mua thức ăn. Chỉ có một mình Ngài với chị. Bình thường các phụ nữ ra giếng chung của làng để múc nước vào ban sáng hoặc ban chiều cho đỡ nắng, riêng chị lại múc vào ban trưa. Đọc tiếp đoạn Tin Mừng ta sẽ biết lý do: chị không phải là một phụ nữ đàng hoàng về mặt luân lý; chị đã có 5 đời chồng và hiện đang sống với một người không phải là chồng mình (x. Ga 4,16-18). Chắc hẳn chị không muốn chường mặt ra vào lúc đông người, sợ phải nghe những lời dị nghị không hay về mình. Thế mà Đức Giêsu lại chọn chị để mặc khải những chân lý quan trọng: việc «thờ phượng Thiên Chúa trong thần khí và sự thật» (Ga 4,24), nước hằng sống (Ga 4,10b), đồng thời tỏ cho chị biết Ngài chính là Đấng Cứu Thế… Và chị đã trở thành người loan báo Tin Mừng cho cả làng của chị, khiến cho «có nhiều người Samari trong thành đó đã tin vào Đức Giêsu, vì lời người phụ nữ làm chứng» (Ga 4,39)

Thật là lạ lùng cách làm việc của Ngài. Ngài không chọn người đàng hoàng, đạo đức để loan báo Tin Mừng và làm chứng cho Ngài, mà lại chọn một phụ nữ bị mọi người khinh bỉ và coi là tội lỗi. Mà lại hữu hiệu! thế mới tài tình!



2.  Đức Giêsu là mạch nước hằng sống

Nhân việc xin nước, Đức Giêsu đã dùng ý niệm nước để vào đề một cách thật tài tình để mặc khải về nước hằng sống. Nước là một yếu tố tối cần thiết cho sự sống, đến nỗi có thể nói: chỗ nào không có nước thì không thể phát sinh sự sống, và sự sống không thể tồn tại được. Ai cũng phải uống nước mới sống được. Trong cơ thể con người, nước chiếm tới 72% trọng lượng. Nhưng thứ nước vật chất này cứ phải uống hoài, vì «ai uống nước này, sẽ lại khát» (Ga 4,13)

Đức Giêsu đã dựa vào tính chất này của nước vật chất để giới thiệu một thứ nước khác: «Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14). Chị Samari tưởng rằng Ngài muốn nói đến một thứ nước vật chất khác, uống vào thì không còn khát nữa, nhưng không phải. Ngay cả thứ nước trong câu «ai uống nước này, sẽ lại khát» cũng là một thứ nước theo nghĩa bóng.

Con người ai cũng khao khát hạnh phúc, thứ hạnh phúc đích thực và lâu bền. Và người trần, ai cũng đi tìm những phương tiện giúp mình hạnh phúc. Người thì tìm hạnh phúc trong tiền bạc, kẻ tìm trong quyền lực, người khác tìm trong vui thú xác thịt, v.v… Nhưng hạnh phúc tìm được nơi những thứ ấy rất chóng qua, và thường để lại hậu quả là đau khổ. Người nghèo cảm thấy khổ vì thiếu tiền, nên nghĩ rằng phải có nhiều tiền mới hạnh phúc. Nhưng người có tiền lại khổ vì tiền như người ta vẫn nói: «Người giàu cũng khóc», «tiền không đem lại hạnh phúc». Người không con cái thì lấy đấy làm khổ và cho rằng phải có con mới hạnh phúc được; đến khi có con thì lại khổ vì con, do nó bất hiếu, hư đốn, bệnh tật, hoặc nó không theo ý mình. Vì thế, chẳng mấy ai trên đời được hạnh phúc. Thứ hạnh phúc mà trần gian này cung cấp toàn là như vậy: hạnh phúc đấy, mà đau khổ cũng đấy! Nhiều điều của trần gian hôm trước đem lại hạnh phúc thì ngay hôm sau đã đem lại đau khổ!

Trần gian chỉ có thể cung cấp cho ta thứ hạnh phúc ấy: thứ hạnh phúc không thể thỏa mãn được lòng khao khát vô tận của con người, thứ hạnh phúc kiểu «uống rồi lại khát» (Ga 4,13). Nhưng Đức Giêsu giới thiệu một thứ hạnh phúc mà Ngài có thể cung cấp là thứ hạnh phúc theo kiểu «uống vào sẽ không bao giờ khát nữa» (Ga 4,14). Đó không phải là một cái gì vật chất có thể trao được, mà là một lối sống, một con đường sống, một tinh thần sống phải đem ra thực hành

Đó chính là sứ điệp Tin Mừng mà Ngài đã rao giảng và đã sống trọn vẹn suốt đời Ngài. Rất nhiều người thật sự sống theo sứ điệp này đã cảm thấy hạnh phúc thật sự, thứ hạnh phúc không ai lấy mất được, cho dẫu họ có phải sống trong nghèo đói, túng thiếu, tù tội, tra tấn, hay bị gạt ra ngoài lề xã hội. Và người nào đã có được thứ hạnh phúc ấy, thì một cách tất yếu người ấy sẽ trở thành «một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14).

Chúng ta đã theo Đức Giêsu bao năm rồi? Nhưng chúng ta đã thật sự hạnh phúc chưa? Nếu chưa, thiết tưởng chúng ta cần phải xét lại và thay đổi cách theo Ngài của chúng ta. Có thể ta chưa hiểu được đúng đường lối của Ngài, hay chưa có được tinh thần của Ngài, hay chưa thật sự sống đúng đường lối của Ngài. Biết bao người đã theo Ngài và đã cảm thấy thật sự hạnh phúc suốt cuộc đời trần gian đầy biến động này. Vậy tại sao ta chưa hạnh phúc?




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, để sống được, con người cần có không khí để thở, có ánh sáng để nhìn thấy, có nước để uống, có lương thực để ăn… Đức Giêsu đã cung cấp tất cả những thứ đó cho chúng con để đời sống tâm linh của chúng con tồn tại và phát triển. Ngài đã cho chúng con khí để thở là Thánh Thần, và chính Ngài là ánh sáng, là mạch nước và là lương thực cho sự sống của chúng con. Ngài cũng chính là đường đi dẫn chúng con đến với Cha, và cũng chính là sự sống của chúng con (x. Ga 14,6). Xin cho chúng con biết sống bằng chính Đức Giêsu như Cha hằng mong muốn và cung cấp cho chúng con.


Tuesday, March 3, 2020

Chay2b - Hành trình và sự thành tựu của đức tin




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ Mùa Chay

(08-02-2020)

Bài đào sâu

Hành trình và sự thành tựu của đức tin



  TIN MỪNG: Mt 17,1-9

Đức Giêsu hiển dung



Câu hỏi gợi ý:
1.   Việc biến hình của Đức Giêsu xảy ra sau những sự kiện liên tiếp nhau: Phêrô tuyên xưng đức tin, Đức Giêsu báo trước cuộc tử nạn và nói ra những điều kiện để theo Ngài. Điều đó có ý nghĩa gì?

2.   Sự biến hình của Đức Giêsu có phải là một hứa hẹn cho sự biến hình của ta không? Ta có thể được biến đổi từ một con người yếu đuối, khiếm khuyết hiện tại thành một con người mới mạnh mẽ, thánh thiện trong tương lai, như một con sâu xấu xí biến thành một con bướm đẹp rực rỡ không? Muốn thế, ta phải làm gì?

Suy tư gợi ý:

Trong Tin Mừng Mátthêu, ta thấy có 4 sự kiện xảy ra liên tiếp nhau. 

• Trước hết, Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa (x. Mt 16,13-20)
• Kế đến Ngài báo trước cho ông và các môn đệ cuộc tử nạn thảm thương của Ngài (x. Mt 16,21-23)
• Rồi Ngài cho các ông biết những điều kiện phải có để có thể theo Ngài (x. Mt 16,24-28)
• Và cuối cùng Ngài tỏ thiên tính và vinh quang của Ngài ra cho ông và 2 môn đệ thân tín khác của Ngài (Mt 17,1-9)

Không phải vô tình mà 4 sự kiện ấy xảy ra liên tiếp như vậy. Đó là một trình tự đầy ý nghĩa, cho chúng ta thấy một hành trình phải trải qua để người Kitô hữu trưởng thành trong đời sống tâm linh.



1.  Thành hình đức tin

Những người sống đồng thời với Đức Giêsu, được nghe biết bao lời giảng dạy đầy quyền uy và khôn ngoan của Ngài, được chứng kiến bao điều lạ lùng Ngài làm, nhưng nhiều người không tin Ngài, tuy nhiên cũng có một số người tin Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế. Phêrô là một trong những người tin vào Ngài vững chắc nhất.

Trong số những người tin, có những người tin do tính dễ tin của họ: ai nói gì cũng tin, vì họ ít suy nghĩ, ít khả năng suy xét, phán đoán. Niềm tin của họ vì thế không có nền tảng vững chắc, do đó họ cũng dễ dàng mất đức tin khi nghe những người có uy tín nói hay lý luận ngược lại. Có những người tin rất vững chắc mặc dù họ không phải là người dễ tin, thậm chí còn rất khó tin nữa: họ tin vì họ biết suy nghĩ, nhận định, phán đoán, biết thực nghiệm đức tin.

Ngoài những lý do siêu nhiên là ơn Chúa ban, đức tin còn tùy thuộc vào lương tri và sự yêu mến chân lý hơn là vào trình độ học thức hay văn hóa. Trong đời sống tâm linh, người có lương tri và lòng chân thành thường phán đoán chính xác và đúng đắn hơn người chỉ có trình độ học thức hay văn hóa, cho dù là học thức về tôn giáo. Thật vậy, giới lãnh đạo tôn giáo Do Thái có trình độ học thức và giáo lý cao hơn Phêrô các các tông đồ rất nhiều, nhưng họ không tin Đức Giêsu. Vì càng cậy vào trình độ văn hóa hay giáo lý hơn là vào lương tri, thì chính trình độ ấy nhiều khi lại càng cản trở họ tin hơn. Đương nhiên đức tin luôn luôn là kết quả của ơn Chúa luôn sẵn sàng ban trên mọi người, nhưng có lãnh nhận được ơn Chúa hay không lại tùy thuộc rất nhiều vào lòng khiêm tốn và chân thành, là hai yếu tố quan trọng của lương tri con người.

Tuy nhiên, đức tin ban đầu thường pha trộn nhiều ảo tưởng và tham vọng. Chẳng hạn như Phêrô, khi tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa (x. Mt 16,13-20), là Đấng Cứu Thế, thì Đấng Cứu Thế ấy là một Đấng Cứu Thế theo quan niệm đầy ảo tưởng của ông: Ngài sẽ giải phóng dân tộc, rồi làm vua, và ông sẽ là một cận thần của Ngài, một vị quan lớn trong triều đình. Một đức tin như vậy cần phải được tinh luyện, như vàng quặng phải được tinh luyện thành vàng ròng mới có giá trị.



2.  Tinh luyện đức tin

Phêrô tưởng tin vào Đức Giêsu thì sau này mình sẽ trở thành một nhận vật tên tuổi, «cái tôi» của ông sẽ được phình to lên trước mặt mọi người. Vì ông tin rằng Đức Giêsu, Thầy mình, sẽ làm vua ở trần gian. Nhưng Đức Giêsu phá đổ ảo tưởng đó để đức tin của ông trở nên thực tế và tinh ròng hơn. Ngài tiên báo rằng Ngài sẽ bị bắt, bị tra tấn, và sẽ chết cách nhục nhã. Điều này khiến Phêrô ban đầu không hiểu và không chấp nhận được, vì như thế, mọi ảo tưởng của ông đều mất chỗ dựa và sụp đổ. Nhưng đó là quá trình phải trải qua của đức tin để trở thành một đức tin trưởng thành. Qua sự dạy dỗ, Đức Giêsu đã biến đức tin của ông thành tinh ròng, đúng đắn, vị tha, một đức tin trưởng thành, đầy sức mạnh. Chỉ với đức tin đó ông mới có thể thành nền tảng cho Giáo Hội mà Đức Giêsu thiết lập.

Cũng vậy, nơi mọi người, đức tin ban đầu rất thường pha trộn với ít nhiều ảo tưởng, sai lầm, mê tín, và vị kỷ. Ban đầu người ta thường tưởng đức tin sẽ đem lại cho họ những thuận lợi cho cuộc đời họ, giúp họ thực hiện những mơ ước hay tham vọng trần tục vị kỷ của họ. Dẫu vậy, Thiên Chúa vẫn chấp nhận thứ đức tin ấy, và Ngài biến đổi nó, miễn là người ta trung thành với Ngài. Sẽ có những lúc vì đức tin mà họ bị mất mát, thiệt thòi, bị bách hại, đau khổ. Sẽ có lúc đức tin bị thử thách vì những tai họa, bệnh hoạn, nghịch cảnh… Và đức tin dường như chẳng đem lại cho người ta những thuận lợi của trần gian. Những mối phúc mà Đức Giêsu hứa cho những người thực hành niềm tin nơi Ngài toàn là những gì mà thế gian cho là bất lợi: nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, khao khát công chính, biết thương xót người, trong sạch, hòa bình, bị bách hại… (x. Mt 5,1-12). Đây là giai đoạn thanh luyện đức tin, gột bỏ những gì là tham vọng, ảo tưởng, sai lầm trong đức tin.



3.  Thực thi đức tin

Sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, Ngài liền phá đổ các ảo tưởng trong đức tin của ông bằng việc báo trước cuộc tử nạn của Ngài. Tiếp đến, Ngài lột bỏ tính cách vị kỷ trong đức tin của ông, bằng cách đòi hỏi ông và những ai tin theo Ngài phải từ bỏ con người vị kỷ của mình: «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy» (Mt 16,24-25). Từ bỏ con người vị kỷ là coi nhẹ «cái tôi» của mình, sẵn sàng chấp nhận đau khổ, thậm chí mất tất cả, kể cả mạng sống mình vì tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân. Đức tin vị kỷ ban đầu phải trở thành đức tin vị tha: nghĩa là phải vì vinh quang của Thiên Chúa và hạnh phúc của đồng loại.

Đây chính là giai đoạn thực thi đức tin trong đời sống cụ thể của con người. Nó hoàn thành việc tinh luyện đức tin. Đức tin phải thể hiện thành đời sống, thành cách suy nghĩ, cách nói năng, cách phản ứng, cách đối xử, cách hành động… Nếu không, đó chỉ là đức tin giả hiệu, mà thánh Giacôbê còn gọi là «đức tin chết» (Gc 2,17.26). Thỉnh thoảng chúng ta nên nghiêm túc xét lại xem đức tin của mình là loại đức tin nào? sống hay chết, đích thực hay giả hiệu?



4.  Thành tựu của đức tin

Một đức tin đích thực, trưởng thành và vị tha như thế sẽ dẫn ta tới đâu? Sau khi đòi hỏi Phêrô và các môn đệ khác phải «từ bỏ chính mình», «vác thập giá mình» vì đức tin, Đức Giêsu cho ông và hai môn đệ thân tín khác – là ba người tin vào Ngài vững mạnh nhất – thấy thiên tính và sự vinh quang của Ngài khi Ngài biến hình trên núi. Qua việc biến hình này, trước hết Ngài cho các ông thấy niềm tin của họ vào Ngài là chính xác, và họ không hề tin lầm: Ngài chính là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa đúng như Phêrô đã tin và tuyên xưng. Kế đến Ngài cho các ông thấy, một cách biểu tượng, phần thưởng vĩ đại cho đức tin trưởng thành của các ông, một đức tin đã được thử thách và tinh luyện. Phần thưởng vĩ đại ấy không phải thứ vinh quang trần tục chóng qua mà các ông từng mong đợi được hưởng ở đời này, mà là thứ vinh quang thần linh và vĩnh cửu của Ngài mà các ông sẽ được dự phần vào như Môsê và Êlia.

So với vinh quang vĩ đại ấy, những gì ông hy sinh từ bỏ ở đời này chẳng đáng vào đâu: «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18). Vinh quang đó không chỉ được mặc khải cho chúng ta – những kẻ tin vào Ngài – mà là nơi chúng ta; nghĩa là vinh quang đó là của chúng ta, được thể hiện ngay trong bản thân chúng ta.

Đó là quá trình phải trải qua của đức tin mỗi người, từ khi thành hình đến khi thành tựu viên mãn. Mỗi Kitô hữu hãy tự hỏi: đức tin của mình đang ở giai đoạn nào? đã được tinh luyện bằng gian nan thử thách để trở nên trưởng thành chưa? khi đức tin bị thử thách, thái độ của ta thế nào?



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, vàng ban đầu ở dạng quặng bao giờ cũng phải được tinh luyện mới thành vàng ròng, đức tin của con – cũng như của Phêrô và các tông đồ xưa – cần phải được tinh luyện mới trở nên tinh tuyền, mới có giá trị. Xin cho con biết kiên trì khi đức tin được tinh luyện, thử thách, nhất là cho con biết tích cực góp phần chủ động của mình trong việc tinh luyện này. Bằng cách sống đức tin trong đời thường qua việc «từ bỏ mình», coi nhẹ «cái tôi» của mình và những gì của mình, để thật sự «vác thập giá mình» mà theo Đức Giêsu. Để rồi chính con sẽ được biến hình – như một con sâu biến thành con bướm – từ con người cũ thành con người mới, từ con người tự nhiên thành con người siêu nhiên.


Chay2a - Ý nghĩa và mục đích cuộc hiển dung của Đức Giêsu




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 2 Mùa Chay

(08-02-2020)


Ý nghĩa và mục đích
cuộc hiển dung của Đức Giêsu



ĐỌC LỜI CHÚA

  St 12,1-4a: (1) Ðức Chúa phán với ông Ápram: Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. (2) Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. (3) Nhờ ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.

  2Tm 1,8b-10: (9) Người đã cứu độ và kêu gọi chúng ta vào dân thánh của Người, không phải vì công kia việc nọ chúng ta đã làm, nhưng là do kế hoạch và ân sủng của Người. Ân sủng đó, Người đã ban cho chúng ta từ muôn thuở trong Ðức Kitô Giêsu.


  TIN MỪNG: Mt 17,1-9

Ðức Giêsu hiển dung

(1) Sáu ngày sau, Ðức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan là em ông Giacôbê đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. (2) Rồi Người biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. (3) Và bỗng các ông thấy ông Môsê và ông Êlia hiện ra đàm đạo với Người. 

(4) Bấy giờ ông Phêrô thưa với Ðức Giêsu rằng: Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay! Nếu Ngài muốn, con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Ngài, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia. (5) Ông còn đang nói, chợt có đám mây sáng ngời bao phủ các ông, và có tiếng từ đám mây phán rằng: Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người! (6) Nghe vậy, các môn đệ kinh hoàng, ngã sấp mặt xuống đất. (7) Bấy giờ Ðức Giêsu lại gần, chạm vào các ông và bảo: Chỗi dậy đi, đừng sợ! (8) Các ông ngước mắt lên, không thấy ai nữa, chỉ còn một mình Ðức Giêsu mà thôi.

(9) Ðang khi thầy trò từ trên núi xuống, Ðức Giêsu truyền cho các ông rằng: Ðừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy.



CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1.   Ý nghĩa của những chi tiết trong cuộc hiển dung là gì? Mục đích của cuộc hiển dung là gì? 
2.   Lời Chúa Cha giới thiệu về Ðức Giêsu: Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!. Nội dung của lời giới thiệu này có mấy điểm? Là những điểm nào? 
3.   Vâng nghe lời Ðức Giêsu như Chúa Cha khuyên ta thì được lợi ích gì?

Suy tư gợi ý:

1.  Ý nghĩa thị kiến hiển dung của Ðức Giêsu

Ðây là một thị kiến mà ba môn đệ thân tín nhất của Ðức Giêsu nhìn thấy. Thị kiến này mạc khải cho ba môn đệ thấy thần tính của Ðức Giêsu. Những gì thấy trong thị kiến đều có một ý nghĩa thần bí:

Ngọn núi cao: biểu tượng sự siêu việt, thánh thiện, cao cả, thanh thoát, xa rời thế tục

Chỉ có bốn thầy trò với nhau: sự mạc khải chỉ biểu lộ cho những người thân thiết nhất, mang tính riêng tư.

Sự biến hình đổi dạng: cho thấy một bản chất sâu xa bên trong, một cái gì sẽ được tỏ hiện trong tương lai. Người thường không thấy được điều ấy, họ chỉ thấy được cái gì hiện ra bên ngoài trong hiện tại.

Dung nhan chói lọi như mặt trời: biểu tượng của thần tính, hay thiên tính, đầy vinh quang, quyền lực.

Y phục trắng tinh như ánh sáng: biểu tượng sự trong sáng, sự quang minh chính đại cực độ, hoàn toàn không lầm lỗi, không khiếm khuyết.

Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo: đây là hai nhân vật lớn nhất tiêu biểu cho Cựu Ước hay Giao Ước cũ. Môsê, nhà làm luật, tượng trưng cho luật pháp, Êlia, ngôn sứ lớn nhất trong Cựu Ước, đại diện các ngôn sứ

Luật pháp và các ngôn sứ là cốt tủy, là những thứ biểu trưng và thiêng liêng nhất trong Cựu Ước. Hai ông còn là hai người có thế giá nhất đã báo trước sự ra đời của Ðức Giêsu. Môsê là tác giả của bộ Ngũ Kinh (5 cuốn đầu của Cựu Ước) đã tiên báo một đại ngôn sứ sẽ đến (x. Ðnl 18,15-19). Còn Êlia là nhân vật mà Thiên Chúa sai đến như một dấu chứng báo trước ngày mà chính Thiên Chúa đến trần gian (x. Ml 3,23). Trong thị kiến này, hai ông biểu tượng cho hai chứng từ sống động nhất làm chứng cho thiên tính của Ðức Giêsu.

Ðám mây sáng ngời bao phủ cả ba người: tượng trưng cả ba người đều đến từ Thiên Chúa, và đang sống trong vinh quang của Thiên Chúa. Trong Kinh Thánh (cũng như trong các kinh điển của các tôn giáo), đám mây tượng trưng cho mầu nhiệm Thiên Chúa đang hiện diện: chẳng hạn cột mây dẫn đường dân Do Thái qua biển đỏ (Xh 13,2124), cột mây trước Lều Tạm (Xh 33,9-10; 40,34-38), hay GiaVê thường hiện ra với Môsê trong đám mây (Xh 16,10; 19,9; 20,21; 24,1516).

Tiếng phán ra từ đám mây: «Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!» (Mt 17,5b). Ðây là dấu chứng mạnh nhất, vĩ đại nhất mang tính dứt khoát cho biết Ðức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, mà mọi người có thể tin tưởng và vâng phục. Chính Chúa Cha trực tiếp giới thiệu Con Yêu Dấu của mình. Còn lời chứng nào giá trị hơn nữa?



2.  Hãy vững tin vào thiên tính của Ðức Giêsu

Qua thị kiến hiển dung này, Thiên Chúa đã trực tiếp củng cố niềm tin cho ba môn đệ thân tín nhất của Ðức Giêsu vào Ngài, và cũng gián tiếp củng cố niềm tin của các môn đệ khác, và cả chúng ta nữa. Thị kiến này các ông đã mang theo trong tâm trí suốt cuộc đời như một hành trang quý báu giúp các ông tin vững chắc vào Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Ðấng Thiên Sai, Ðấng Cứu Thế mà mọi người đều trông mong. Nhờ niềm tin vững chắc này, các ông rao giảng về Ðức Giêsu một cách xác tín, và vượt qua được mọi gian lao thử thách do việc rao giảng ấy. 

Thánh Phêrô đã nhắc lại biến cố này như một dấu chứng chắc chắn để mọi người tin vào lời chứng của mình: «Thật vậy, khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. Quả thế, Người đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang và danh dự, khi có tiếng từ Ðấng tuyệt vời vinh hiển phán với Người: "Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quý mến". Tiếng đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người» (2Pr 1,16-18).

Nếu mục đích của sự hiển dung này là để củng cố niềm tin các tông đồ vào thiên tính của Ðức Giêsu, thì nó cũng có mục đích củng cố niềm tin mỗi người chúng ta. Ðức tin càng được xác tín mạnh mẽ từ trong thâm tâm, chứ không chỉ tuyên xưng ngoài miệng, sẽ làm cho đời sống Kitô hữu càng thêm sâu sắc và phong phú, càng làm tình yêu và nội lực ta thêm dồi dào.



3.  Hãy vâng nghe lời Người!

Qua biến cố hiển dung, Ðức Giêsu chẳng những được giới thiệu cho chúng ta. Sự giới thiệu có giá trị hay không, và giá trị đến mức nào tùy thuộc vào thế giá của người giới thiệu. Còn ai có thế giá trong tôn giáo cho bằng Môsê và Êlia, và nhất là còn ai thế giá trong toàn vũ trụ bằng Chúa Cha, Ðấng tạo dựng nên cả vũ trụ bao la này. Chúa Cha đã giới thiệu Ngài: «Ðây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!» (Mt 17,5b)

Lời giới thiệu ấy tuy ngắn ngủi nhưng nội dung rất quan trọng, gồm 3 điểm sau đây:

a) Ðức Giêsu là Con Thiên Chúa: Ðó là một chức vị duy nhất và cao nhất sau Chúa Cha trong toàn vũ trụ. Ngài là Con duy nhất của một Thiên Chúa độc nhất. Và Ngài cũng là Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha. Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do bản chất Thiên Chúa của Ngài.

b) Ðức Giêsu rất đẹp lòng Chúa Cha: Một người đẹp lòng Chúa Cha tất nhiên hết sức hoàn hảo, không một khiếm khuyết nào. Vì thế, Ngài đầy uy tín và rất đáng tin tưởng do phẩm chất hết sức cao quí của Ngài.

c) Vì thế, Chúa Cha khuyên chúng ta hãy vâng nghe lời Người! Lời khuyên của Thiên Chúa yêu thương chúng ta vô cùng lại đầy khôn ngoan và quyền năng ắt phải có một giá trị vô cùng lớn. Không một lời khuyên nào đối với ta có thể khôn ngoan và đem lại lợi ích cho ta như vậy. Vậy chúng ta hãy vâng nghe lời Ðức Giêsu.

Thánh Phêrô, người đã chứng kiến việc hiển dung của Ðức Giêsu và đã nghe được lời giới thiệu về Ngài của Chúa Cha, đã phải thốt lên tâm tình của mình: «Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời» (Ga 6,68). Chính Ðức Giêsu cũng đã xác nhận: «Ai tuân giữ lời tôi, thì sẽ không bao giờ phải chết» (Ga 8,51). Không bao giờ phải chết ở đây nghĩa là có được sự sống đời đời.



4.  Sự sống đời đời do vâng nghe lời Ðức Giêsu

Lợi ích lớn lao do việc vâng nghe lời Ðức Giêsu chính là có được sự sống đời đời. Sự sống đời đời ấy không phải là một cái gì xa lạ mà phải qua thế giới bên kia mới cảm nghiệm được, mà là một cái gì thực tế và cụ thể, có thể cảm nghiệm được ngay ở đời này, thậm chí tại đây và lúc này (hic et nunc) một cách hết sức hiện sinh. Sự sống ấy đã được Ðức Giêsu nói đến trong câu: «Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10). Ở đời này, sự sống đời đời được thể hiện bằng sự sống dồi dào nội lực và sinh khí để có thể sống tràn đầy bình an và hạnh phúc, trong tinh thần vị tha, quên mình, biết yêu thương và hy sinh cho tha nhân không mệt mỏi. Ðó là thứ hạnh phúc đích thực của thiên đàng là nơi chỉ có yêu thương, không còn ích kỷ hay thù hận. Ðó là sự bình an và hạnh phúc vô biên trong nội tâm, thứ hạnh phúc không bị lệ thuộc vào hoàn cảnh hay những yếu tố bên ngoài, một thứ hạnh phúc không ai lấy mất được.

Sự sống đời đời ấy ta có được là do vâng nghe lời Ðức Giêsu, để chúng ta có thể nhìn cuộc đời, quan niệm mọi sự như Ðức Giêsu đã nhìn và quan niệm, để ta có thể tư tưởng, nói năng và hành xử như Ngài đã từng tư tưởng, nói năng và hành xử. Ở đời này, sự sống ấy có thể ví như ở dạng hạt, và nó sẽ phát triển thành cây cổ thụ và sinh hoa kết trái ở đời sau. Chỉ khi ta có được hạt giống sự sống đời đời ở đời này do việc vâng nghe lời Ðức Giêsu, ta mới có được cây sự sống đời đời ấy ở đời sau (x. Kh 22,2.14.19).




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Cha đã giới thiệu Ðức Giêsu cho con, đã khuyên con hãy vâng nghe lời Ngài. Con biết: sự sống đời đời là điều con ao ước nhất và có khả năng làm thỏa mãn con nhất mà con có thể tìm được nhờ vâng nghe lời Ngài một cách triệt để và sâu xa. Xin Cha giúp con thực hiện được điều ấy. Amen.

Nguyễn Chính Kết