Sunday, June 28, 2020

TN14b - Tránh tự mãn để hiểu biết và kinh nghiệm nhiều hơn về Thiên Chúa




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 14 Thường Niên

(05-07-2020)

Bài đào sâu

Tránh tự mãn để hiểu biết và kinh nghiệm nhiều hơn về Thiên Chúa

  TIN MỪNG: Mt 11,25-30

Chúa Cha và người Con
Hãy mang lấy ách của tôi




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Người tự mãn với những gì mình đang có, đang biết, thì có thể có thêm, biết thêm nhiều hơn không? Tại sao? 
2. Trong đời sống tâm linh, nếu ta tự mãn với những hiểu biết hay trình độ tâm linh mình đang có, thì có thể tiến bộ về tâm linh hơn không? Tại sao? 
3. Mang lấy ách của Đức Giêsu nghĩa là gì? Tại sao ách Ngài lại nhẹ nhàng?

Suy tư gợi ý:

1.  Muốn đạt chân lý, phải dấn thân trọn vẹn cho chân lý

Một nhà thông thái nọ đến xin một đạo sư truyền đạo cho mình. Đạo sư bèn lấy trà ra để tiếp khách. Nhưng ông làm một điều rất kỳ lạ: nước đã đầy và tràn ra mà ông vẫn cứ rót tiếp. Người khách ngạc nhiên hỏi ông tại sao lại làm như vậy. Đạo sư đáp: «Tâm hồn và lòng trí ông cũng đầy ắp như tách trà này rồi, làm sao chứa thêm những chân lý về đạo được nữa?»

Kinh nghiệm cho tôi thấy: một khi lòng trí tôi mải miết lo chuyện gì, thì tôi không thể mải miết với chuyện khác được, nhất là những chuyện có tính chất trái ngược với chuyện tôi đang mải miết say mê. Đó là một định luật tâm lý rất phổ quát. Cũng vậy, một người đang say mê những chuyện trần tục, những chuyện tầm thường, người ấy khó có thể nhập tâm và hiểu được những chân lý siêu việt của tôn giáo. Vì muốn hiểu và cảm nghiệm được những chân lý này, con người phải dấn thân trọn vẹn cho chân lý. Chân lý tôn giáo giống như viên ngọc quý hay kho báu dấu trong ruộng, phải bán hết tất cả những gì mình có mới mua được (x. Mt 13,44-46). Đối với những ai trong lòng đang đầy ắp «cái tôi» vị kỷ của mình cũng vậy, lòng trí họ không còn chỗ nào cho Thiên Chúa hay Đức Giêsu sống và hoạt động trong họ nữa.



2.  Phá chấp, phá «sở tri chướng»

Học sinh cấp một được cô giáo dạy: không được lấy số nhỏ trừ số lớn, vì không thể có 3 trái cam mà lại ăn hết 5 trái được. Với trí óc của em, điều đó hoàn toàn hợp lý, không thể khác được. Nhưng nếu em cứ cố chấp với kiến thức hạn hẹp ấy, em sẽ không thể chấp nhận khái niệm về số âm khi em bắt đầu học cấp 2, coi việc lấy số nhỏ trừ số lớn là chuyện bình thường.

Cũng vậy với các học sinh cấp hai. Các em được dạy rằng trong căn hiệu bậc hai không thể có số âm, vì số trong căn hiệu được giả thiết là bình phương của một số, mà đã là bình phương thì không thể là số âm được. Đối với trình độ cấp 2 của các em, điều đó thật hợp lý, và không thể khác hơn được. Nhưng nếu các em cứ cố chấp với kiến thức cố hữu này, các em sẽ không thể chấp nhận được khái niệm về số ảo được dạy trong chương trình giải tích ở đại học, cho phép có số âm trong căn hiệu bậc chẵn.

Còn nhiều thí dụ khác tương tự trong lãnh vực toán học, vật lý, hóa học, sinh học… Tương tự, nếu cứ chấp vào những kinh nghiệm và kiến thức trần tục, người ta không thể hiểu được những chân lý cao sâu về tâm linh trong tôn giáo. Cứ chấp cứng vào những quan niệm hay lề lối suy tư của tôn giáo này, ta sẽ vô phương hiểu được quan niệm hay lề lối suy tư của các tôn giáo khác. Hoặc cố chấp vào những điều mà ta cho là chân lý bất biến ở trình độ này, ta không thể tiếp thu được những chân lý ở trình độ cao hơn.



3.  Ai tự mãn với những gì mình đã biết sẽ không thể biết thêm

Cái lý tất yếu ấy, Đức Giêsu đã nói đến: «Lạy Cha, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho các bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn» (Mt 11,25). «Các bậc khôn ngoan thông thái» ở đây không có nghĩa là những người khôn ngoan thông thái đích thực, mà đúng hơn là những kẻ tự mãn với sự thông thái của mình, cho rằng sự hiểu biết của mình đã viên mãn, tràn đầy, không cần phải học hay tìm hiểu thêm gì nữa. Một người tuy dốt nát hiểu biết không hơn ai, nhưng lại tự mãn về sự hiểu biết của mình, cũng được liệt vào hạng này. Họ giống như tách trà đã đầy ắp tới miệng, không thể chứa thêm giọt nước nào nữa. 

Còn «những người bé mọn» ở đây không có nghĩa là những người nhỏ bé, địa vị thấp kém, ít học hành, ít kiến thức, mà có nghĩa là những người tự cho mình là còn biết rất ít, hoặc chưa biết gì cả. Những người này bao gồm cả những người hết sức thông thái nhưng không cho rằng mình biết tất cả, vẫn sẵn sàng lắng nghe và học hỏi nơi người khác. Tâm hồn họ như một ly chưa đầy, sẵn sàng đón nhận những gì từ ngoài vào.

Hai hạng người trên, với thời gian, hạng thứ nhất tự mãn với những hiểu biết của mình– sẽ không tiếp nhận thêm được gì nữa, nên dần dần sẽ bị lạc hậu khi sống trong một thế giới hay xã hội ngày càng tân tiến. Họ cho rằng những điều họ từng tiếp thu được đã viên mãn, trọn vẹn, là những chân lý bất biến rồi, nên không thể chấp nhận điều gì khác hay ngược với những kiến thức ấy. Họ cố chấp với những hiểu biết ấy, nên không thể tiến xa và lên cao hơn được nữa. Họ như một học sinh cấp một, cứ nhất định rằng không thể lấy số nhỏ trừ số lớn được, nên từ chối không học cấp hai, vì không chấp nhận được khái niệm về số âm. Phật giáo gọi sự cố chấp này là «sở tri chướng», nghĩa là chính sự hiểu biết của mình có thể trở thành chướng ngại cản trở mình hiểu biết thêm

Còn hạng thứ hai, cho dù hiểu biết nhiều tới đâu, vẫn cảm thấy mình còn rất nhiều điều chưa biết, và cho những gì mình đã biết có thể còn rất phiến diện, thiếu sót, nên không tự mãn mà khao khát và sẵn sàng học hỏi thêm. Vì thế, họ vẫn còn khả năng tiếp thu thêm những điều mới lạ. Socrate, một triết gia lỗi lạc thời thượng cổ, nói: «Điều tôi biết chắc chắn là: tôi không biết gì cả». Những người có thái độ như ông, cho dù có thông thái tới đâu, cũng là «những kẻ bé mọn» mà như Đức Giêsu nói, sẽ được Chúa Cha mặc khải cho những chân lý quan trọng.



4.  Bé mọn trong đời sống tâm linh

Để hiểu biết về thế giới vật chất hữu hạn này mà người ta đã phải phá chấp không biết bao nhiêu lần mới có thể tiến bộ và lên cao hơn cấp độ mình đang có. Để hiểu được một giả thuyết khoa học mới, phải chấp nhận giả thuyết cũ là còn thiếu sót. Vật chất hữu hạn mà còn vậy, huống hồ Thiên Chúa vô hạn, siêu việt, siêu nghiệm, không bao giờ hiểu cho hết được! Vì thế, để hiểu biết về Thiên Chúa, nếu ta cứ tự mãn hay cố chấp vào những hiểu biết cũ thì ta sẽ ở mãi trong trình độ thấp kém của mình, không thể tiến xa hơn được. 

Đúng ra càng sống đạo lâu, sự hiểu biết, khám phá và kinh nghiệm về Thiên Chúa của ta càng phải mới lạ, sâu xa và phong phú hơn. Thánh Phaolô viết: «Với thời gian, lẽ ra anh em phải là những bậc thầy, thế mà anh em lại cần phải để cho người ta dạy anh em những điều sơ đẳng về các sấm ngôn của Thiên Chúa: thay vì thức ăn đặc, anh em vẫn còn phải dùng sữa. Thật vậy, phàm ai còn phải dùng sữa, thì không hiểu gì về đạo lý liên quan đến sự công chính, vì người ấy vẫn là trẻ con. Thức ăn đặc thì dành cho những người đã trưởng thành, những người nhờ thực hành mà rèn luyện được khả năng phân biệt điều lành điều dữ» (Dt 5,12-14). Khi còn nhỏ, ta chỉ có thể ăn sữa, và ăn sữa là đủ để ta sống. Nhưng khi lớn lên, thức ăn lỏng như sữa không cung cấp đủ năng lượng cần thiết để ta sống và sinh hoạt.

Cũng vậy đối với đời sống tâm linh. Khi mới bước vào đời sống tâm linh, ta cần dùng một thức ăn tâm linh sơ đẳng: chẳng hạn ta cầu nguyện bằng những lời kinh đã dọn sẵn, nhờ đó ta tập nói chuyện với Chúa. Và lúc đó thức ăn tâm linh đó đủ cho sự sống tâm linh còn non nớt của ta. Nhưng nếu ta không nâng cấp cách cầu nguyện ấy lên, tâm linh ta không thể lớn lên được. 

Cách cầu nguyện đơn giản ấy không đem lại đủ sức mạnh để ta chu toàn những phận sự ngày càng khó khăn và nặng nề hơn của ta, không giúp ta vượt qua được những trở ngại lớn lao mà ta gặp trên đường đời, và thắng được những cơn cám dỗ mạnh mẽ. Ta cần thực tập những cách cầu nguyện cao hơn: cầu nguyện tự phát bằng chính những tâm tình có thật, những nhu cầu có thật của ta

Hoặc cao hơn nữa, cầu nguyện bằng cách ý thức sâu xa sự hiện diện của Thiên Chúa trong tâm hồn ta, bằng cách lắng nghe Chúa nói trong đáy lòng ta, bằng sự kết hiệp thân mật với Thiên ChúaNhững cách cầu nguyện cao cấp đem lại cho ta nhiều sức mạnh, nhiều niềm vui hơn, nhờ đó ta có nhiều kinh nghiệm về Thiên Chúa hơn

Nếu ta tự mãn với tình trạng tâm linh hiện tại của ta, đời sống tâm linh của ta không thể lớn lên và mạnh mẽ được. Trái lại, nếu ta nhìn nhận rằng ta cần phải tiến bộ nhiều hơn, sẵn sàng đón nhận những hiểu biết và kinh nghiệm mới mẻ về Thiên Chúa, những cách thức sống đạo mới hơn, cao hơn, thực tế hơn, bớt hình thức mà đi vào chiều sâu hơn, thì ta sẽ thấy mình dần dần tiến cao hơn, và dễ dàng sống thánh thiện, vị tha, hy sinh cho Thiên Chúa và tha nhân hơn. Nếu cá nhân cần phải loại trừ tính tự mãn mới tiến bộ được, thì các tập thể, kể cả quốc gia, tôn giáo, cũng phải như vậy.




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, tâm hồn con nặng trĩu những âu lo, phiền muộn, chỉ vì con đã đặt nặng «cái tôi» của mình nhiều quá. «Cái tôi» của con đã chiếm hết không gian tâm thức của con, và gây ra biết bao xáo trộn, xung đột với tha nhân, với lương tâm, với bổn phận, tạo nên bao phiền muộn, lo lắng, sợ hãi… Cái ách của «cái tôi» thật nặng nề. Xin cho con biết mang lấy ách nhẹ nhàng của Đức Giêsu, bằng cách «từ bỏ mình», là điều kiện đầu tiên mà Ngài đòi buộc những ai theo Ngài phải thực hiện. Từ xưa đến nay, có thể con chỉ mang danh theo Chúa thôi, chứ thực tế con chưa hề theo Ngài bao giờ, vì con chưa hề «từ bỏ mình». Con vẫn coi «cái tôi» của mình quan trọng quá mức! Ai nói động đến con là con nổi tam bành lên. Xin cho con hiểu rằng điều kiện tiên quyết để theo Chúa là từ bỏ chính «cái tôi» của mình. Nhờ thế, những ai theo Chúa đích thực luôn luôn được bình an, hạnh phúc và tràn đầy sức mạnh.

Nguyễn Chính Kết



Bấm vào đây để trở về bài chia sẻ: 
«Cái tôi» càng bé, «Thiên Chúa trong tôi» càng lớn
(https://chiasethanhuu.blogspot.com/2020/06/tn14a.html)


TN14a - «Cái tôi» càng bé, «Thiên Chúa trong tôi» càng lớn




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 14 Thường Niên

(05-07-2020)


«Cái tôi» càng bé, «Thiên Chúa trong tôi» càng lớn
 ► Video: https://www.youtube.com/watch?v=ZBjdz88IzTo



ĐỌC LỜI CHÚA

  Dcr 9,9-10: (9) Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.

  Rm 8,9.11-13: (13) Nếu anh em sống theo tính xác thịt, anh em sẽ phải chết ; nhưng nếu nhờ Thần Khí, anh em diệt trừ những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống.


  TIN MỪNG: Mt 11,25-30

Chúa Cha và người Con

(25) Vào lúc ấy, Đức Giêsu cất tiếng nói: «Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. (26) Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha. (27) Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.

Hãy mang lấy ách của tôi

(28) «Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. (29) Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. (30) Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng».



CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. «Những bậc khôn ngoan thông thái» mà Đức Giêsu nói đến ở đây là những ai? Và «Những người bé mọn» trong đoạn Tin Mừng này là những ai? Còn «Biết những điều này» là biết những gì? 
2. Tại sao «những người bé mọn» lại được Thiên Chúa tự mạc khải cho? 
3. «Ách» của Đức Giêsu nghĩa là gì? Tại sao «ách» ấy lại nhẹ nhàng?


Suy tư gợi ý:

1.  Giải thích một vài từ ngữ khó hiểu trong bài Tin Mừng

Đức Giêsu tạ ơn Chúa Cha vì Ngài «đã giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn». Trong câu Kinh Thánh này, có ba điều ta cần tìm hiểu: (a) «Những bậc khôn ngoan thông thái» là những ai? (b) «Những người bé mọn» là những ai? và (c) «Biết những điều này» là biết những gì?

a) «Những bậc khôn ngoan thông thái»: 

Không nên hiểu từ ngữ này theo nghĩa đen. Trong ngữ cảnh bài Tin Mừng này, nó có nghĩa là những người tự cho mình là khôn ngoan thông thái, là hơn người, là vĩ đại, những người thích tự đề cao mình, thích được coi là quan trọng. Nói chung nó ám chỉ những người coi «cái tôi» của mình quá lớn, muốn «cái tôi» của mình là trung tâm của vũ trụ, được mọi người coi trọng, qui phục, muốn ý kiến và ý muốn của mình được mọi người luôn tôn trọng, chấp hành. Từ khuynh hướng «qui kỷ» ấy, họ dễ trở nên coi thường và khinh chê người khác. Nhiều khi tệ hơn nữa, họ muốn đạp trên đầu trên cổ người khác để tiến lên, sẵn sàng bắt người khác phải hy sinh cho mình.

b) «Những người bé mọn»

Từ ngữ này cũng không nên hiểu theo nghĩa đen là những kẻ nghèo, còn nhỏ tuổi, thuộc hạng cùng đinh trong xã hội. Nhiều người tuy nhỏ bé trong xã hội, nhưng lại rất cao ngạo và coi «cái tôi» của mình to lớn không kém gì «nhưng người khôn ngoan thông thái» kể trên. Trong ngữ cảnh bài Tin Mừng này, «những người bé mọn» ám chỉ những người tự coi mình là nhỏ bé, coi «cái tôi» của mình không là gì cả, không đáng kể, không khao khát được mọi người quan tâm hay chú ý tới mình, không coi ý kiến hay ý riêng mình là quan trọng. Đó là những người sống tinh thần tự hủy theo gương Đức Giêsu (xem Pl 2,6-8), biết «lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình, không tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác» (Pl 2,3-4), sẵn sàng chịu thiệt thòi mất mát vì yêu thương tha nhân. Như vậy, «những người bé mọn» là những người «bé "cái tôi"», hay coi «cái tôi» của mình rất bé.

Muốn biết ta thuộc hạng người nào, hãy xét xem phản ứng của ta thế nào khi ta bị xúc phạm, bị chạm tự ái, bị trái ý. Nếu ta tỏ ra bực bội, tức tối, có phản ứng mạnh, đồng thời cảm thấy đau khổ, muốn trả thù, muốn làm to chuyện, đó là dấu chứng ta thuộc hạng người trước, là hạng coi «cái tôi» của mình quá lớn. Trái lại, nếu ta cảm thấy đó là chuyện bình thường, chuyện nhỏ, không làm mình khó chịu, bực tức hay đau khổ, thì ta thuộc hạng người sau.

c)  «Biết những điều này» là biết những gì?

Chữ «biết» trong Kinh Thánh thường có nghĩa là cảm nghiệm chứ không chỉ là có kiến thức hay hiểu biết xuông. Người ăn trái táo thì có cảm nghiệm về mùi vị của trái táo, khác với người được học hỏi về trái táo một cách tỉ mỉ, khoa học, nhưng chưa hề được cầm trái táo trong tay mà ăn. «Những điều này» trong ngữ cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là những bí nhiệm về Thiên Chúa, về Chân Lý Tối Hậu. «Biết những điều này» là cảm nghiệm về Thiên Chúa, nếm được sự ngọt ngào êm dịu của Thiên Chúa, nhờ đó cảm thấy hạnh phúc, tràn đầy sự sống và sức mạnh của Thiên Chúa.



2.  «Những người bé mọn» dễ cảm nghiệm về Thiên Chúa

«Thiên Chúa là Tình Yêu» (1Ga 4,8). Vì là tình yêu, nên Ngài sẵn sàng tự hủy, hy sinh, phục vụ, quên mình, vì thế, Ngài mới chính là «Người Bé Mọn» tuyệt hảo nhất, là gương mẫu tuyệt vời cho tất cả «những người bé mọn». Vì «những người bé mọn» của Tin Mừng giống Thiên Chúa ở điểm căn bản này là sự yêu thương, nên họ hiểu Ngài và cảm nghiệm được Ngài dễ dàng hơn ai hết theo định luật «đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu». Chính Ngài cũng dễ dàng tỏ mình ra cho hạng người này nhiều hơn ai hết. Các vị thánh được Thiên Chúa tỏ mình ra đều là những người sống tinh thần yêu thương hay tinh thần «bé mọn» hơn ai hết.



3.  Tính chất kỳ diệu và nghịch lý của «cái tôi»

«Cái tôi» là một hồng ân cao cả Thiên Chúa ban cho con người. Nó chính là bản thân ta, là cái ta yêu quí nhất trên đời. Nhưng vì chúng ta được tạo dựng nên giống Thiên Chúa là tình yêu, nên «cái tôi» ấy chỉ lớn mạnh, chỉ trưởng thành, chỉ đạt được giá trị hoàn hảo khi nó thật sự yêu thương, nghĩa là trở nên tình yêu như Thiên Chúa. Mà yêu thương chính là ra khỏi bản thân để hướng đến và sống cho một đối tượng khác. Điều đó đòi hỏi ta phải quên mình, từ bỏ mình, hy sinh chính mình, để chỉ lo cho hạnh phúc và lợi ích của đối tượng ta yêu. Vì thế, càng tự coi mình là nhỏ bé, là không quan trọng để coi đối tượng mình yêu thương là quan trọng, là lớn lao, thì càng thực hiện được khả năng yêu thương. Và như thế là thực hiện được chính bản thân mình, là làm cho «cái tôi» của mình trở nên cao cả, vĩ đại.

Do đó, có một nghịch lý kỳ diệu: ta càng quên «cái tôi» của mình đi, càng làm nó nhỏ bé lại, thì nó lại càng trở nên có giá trị và cao cả. Ngược lại, càng quan trọng hóa nó, càng tự đề cao nó, càng làm cho nó phình lớn, thì càng làm cho nó kém giá trị, càng làm nó nhỏ bé đi trước mặt Thiên Chúa và mọi người. Sự nghịch lý này đã được thánh Phanxicô Khó Khăn cảm nghiệm: «Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời» (Kinh Hòa Bình).

Đối với việc cảm nghiệm Thiên Chúa cũng có sự nghịch lý đó. Sự nghịch lý đó được thánh Gioan Tẩy giả nói đến: «Người phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ đi» (Ga 3,30). Nghĩa là muốn Ngài lớn lên ở trong tôi, thì tôi phải nhỏ đi; hay nếu tôi tự làm cho mình nhỏ bé lại thì Thiên Chúa sẽ tự động lớn lên trong tôi. Còn nếu tôi làm cho «cái tôi» của mình phình to ra, thì Ngài sẽ tự động nhỏ lại trong tôi. 

Ngài có lớn lên trong tôi, tôi mới cảm nghiệm được Ngài, mới hiểu được Ngài, mới cảm nhận được những chân lý của Ngài, mới hấp thụ được sự khôn ngoan của Ngài. Đó chính là ý nghĩa của câu: Thiên Chúa «giấu không cho những bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn». Thực ra Thiên Chúa chẳng muốn giấu gì về Ngài, nhưng những kẻ coi «cái tôi» của mình quá lớn đã tự bịt mắt mình lại trước những chân lý hay sự khôn ngoan của Thiên Chúa, để chỉ nhìn thấy những «giả lý» hay sự khôn ngoan của thế gian.



4.  «Hãy mang lấy ách của tôi», vì «ách tôi êm ái…»

Khi ta coi «cái tôi» của mình là không quan trọng, là thấp kém, ta sẽ cảm thấy mình có vẻ như bị thiệt thòi, bị mất mát đủ thứ, và như bị quàng vào cổ mình một cái ách. Nhưng ách ấy chính là ách của Đức Giêsu, là thứ ách mà chính Ngài đã mang lấy suốt cuộc đời Ngài. Đã là ách thì khi mang vào tất nhiên sẽ cảm thấy nặng và khó chịu. Nhưng không có ách nào nhẹ nhàng và êm ái cho bằng ách của Ngài.

Thật vậy, khi một người coi nhẹ «cái tôi» của mình, không coi nó là quan trọng, tự nhiên người ấy sẽ thấy cuộc sống trở nên rất nhẹ nhàng: vì không cảm thấy bị chạm tự ái, vì không hề tức tối hay đau khổ khi bị xúc phạm, vì sẵn sàng tha thứ không chấp chiếm ai. Nhờ thế, cuộc sống giữa mình với tha nhân không còn vấn đề gì đáng mình phải buồn phiền đau khổ.

Thử đưa ra một trường hợp cụ thể. Giả như có ai đó làm thiệt hại hay xúc phạm đến ta, đó là một sự thiệt hại khách quan, không do ta gây ra. Nếu ta coi «cái tôi» của mình là quan trọng, ta sẽ bực tức buồn phiền và tâm ta sẽ đau khổ. Thế là ta đã tự mình làm cho mình đau khổ và thiệt hại thêm. Nếu ta cứ nghĩ đến chuyện bị xúc phạm đó, ta sẽ đau khổ hoài, và rất có thể vì thế ta tự làm cho mình mắc một chứng bệnh nan y nào đó. Như thế, sự thiệt hại do chính ta tự gây ra cho mình do sự bực tức còn lớn hơn sự thiệt hại ban đầu do người khác gây cho ta. 

– Nhưng nếu ta không coi «cái tôi» của mình là quan trọng, ta sẽ tha thứ ngay cho người xúc phạm hay làm ta thiệt hại, rồi quên ngay đi. Như thế ta chỉ bị sự thiệt hại ban đầu do người khác gây ra mà thôi. Điều đó khó mà tránh được trong cuộc sống chung với mọi người. Nếu ta coi thật nhẹ «cái tôi», ta sẽ thấy sự xúc phạm hay thiệt hại chẳng đáng kể, tâm hồn ta lập tức được bình an, nhẹ nhàng, vui tươi. Như thế chẳng phải ta đã hành động một cách khôn ngoan hơn rất nhiều sao?

Cách sau chính là cách của Đức Giêsu, là «mang lấy ách» của Ngài. Ách đó là ách êm ái và nhẹ nhàng nhất mà người khôn ngoan tất nhiên sẽ chọn khi đứng trước hai thứ ách: ách của Ngàiách của chính mình. Không có ách nào làm ta mệt mỏi và nặng nề cho bằng cái ách do chính «cái tôi phình to» của mình tạo ra, nó chính là nguồn gốc phát sinh nên muôn vàn tội lỗi và đau khổ ở trần gian này. Vì thế, Đức Giêsu khuyên ta: «Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề (vì “cái tôi” của mình), hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi (là cái ách của tình yêu, không có “cái tôi” nặng nề trong ấy), và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường (nghĩa là tính coi nhẹ “cái tôi” của mình). Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng. Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng» (Mt 11,29-30).



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha là Tình Yêu, xin cho con trở nên tình yêu giống như Cha, để con trở nên hình ảnh trung thực của Cha. Để được như thế, xin cho con biết coi nhẹ «cái tôi» của con, nhờ đó đời sống con trở nên nhẹ nhàng, tốt đẹp và hạnh phúc hơn bội phần. Amen.

Nguyễn Chính Kết




Friday, June 19, 2020

TN13b ‒ Để theo Chúa, phải ưu tiên chọn Ngài hơn tất cả

CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 13 Thường Niên

(28-06-2020)

Bài đào sâu

Để theo Chúa,
phải ưu tiên chọn Ngài hơn tất cả


  TIN MỪNG: Mt 10,37-42

Từ bỏ mình để theo Đức Giêsu

Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy



Câu hỏi gợi ý:
1.   Một người từ bỏ mọi sự –những người thân yêu, tương lai sự nghiệp, của cải ruộng vườn– để theo Chúa, có phải người ấy coi rẻ những thực tại ấy không? Chúa có muốn ta khinh chê hay trân trọng những thực tại trần gian? 
2.   Chúa nói: «Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy» (Ga 10,37). Phải chăng Ngài không muốn ta yêu thương cha mẹ ta? Như thế có bất hiếu không? 
3.   Trong thực tế đời thường, ưu tiên chọn lựa Thiên Chúa cụ thể là gì? 
4.   Giữa Thiên Chúa và nhân loại, Thiên Chúa và Giáo Hội, Thiên Chúa và tổ quốc, Thiên Chúa và những việc tốt đẹp ta đang làm cho Ngài, ta phải ưu tiên chọn ai? Bạn đã khi nào phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và những đối tượng đặc biệt đó chưa? Bạn đã chọn lựa thế nào?


Suy tư gợi ý:

1.  Chỉ khi chọn lựa, ta mới chứng tỏ mình quý cái nào hơn

Bình thường, tất cả mọi của cải, đồ đạc trong nhà, ta đều quý, đều coi là có ít nhiều giá trị khiến ta muốn giữ lại. Nếu bị mất, dù chỉ một cây kim, một cây viết, ta đều tiếc xót không nhiều thì ít, tùy theo giá trị của nó lớn hay nhỏ. Dù không khinh chê vật gì, nhưng khi cần phải bỏ nhà để di tản chẳng hạn, ta chỉ đem theo những gì cần thiết nhất, giá trị nhất, và bỏ lại tất cả những thứ khác. Những thứ phải bỏ lại ấy không phải là không có giá trị. Nhưng ta bắt buộc phải bỏ chúng lại vì không mang theo được.

Có những trường hợp thật ngặt nghèo buộc ta phải chọn lựa giữa hai thứ mà ta yêu hoặc quý nhất trên đời. Chẳng hạn giữa cha và mẹ, giữa vợ (hoặc chồng) và con, giữa đứa con này với đứa con kia, v.v… Cả hai đều vô cùng quý giá đối với ta. Nhưng nếu ta chỉ có thể chọn một, nghĩa là chọn cái này thì phải bỏ cái kia, thì từ bỏ bất kỳ cái nào trong hai cũng đều làm ta đau đớn, xót xa, đều tạo cho ta vết thương lòng… Chỉ khi thực tế phải chọn lựa như vậy, ta mới chứng tỏ ta quý cái nào hơn cái nào, coi cái nào quan trọng hơn cái nào. Nếu không, chẳng ai biết được giữa hai người hai vật mà ta đều yêu quý, ta quý người nào vật nào hơn.



2.  Người theo Chúa, phải ưu tiên chọn Ngài hơn tất cả

Đối với với những ai thật sự muốn theo Đức Giêsu, Ngài đều đặt họ vào một chọn lựa giữa Ngài với những đối tượng mà họ yêu quý, trân trọng nhất trên đời. Chỉ khi ta sẵn sàng chọn Ngài và sẵn sàng chấp nhận mất hay từ bỏ đối tượng ta vô cùng yêu quý kia, thì ta mới thật sự xứng danh theo Ngài. Thật vậy, Ngài đòi hỏi ta phải quý Ngài hơn bất kỳ người nào, vật nào, cho dù ta có quý mến hay gắn bó người hay vật ấy tới đâu. 

Ngài nói: «Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy» (Mt 10,37-38). Vì Ngài chính là kho báu hay viên ngọc quý mà Ngài nói đến trong dụ ngôn Mt 13,44-46: phải sẵn sàng bán hết tất cả mọi thứ mình có, thậm chí tới đồng xu cuối cùng, mới có thể mua được kho báu hay viên ngọc ấy. «Sẵn sàng» ở đây là một thái độ tâm linh mà Ngài đòi hỏi tuyệt đối phải có; chứ trong thực tế, chẳng mấy khi Ngài bắt ta phải thật sự «bán hết» tất cả rồi mới đạt được Ngài. Thật vậy, khi ta đã có được thái độ sẵn sàng tuyệt đối ấy, lắm khi Ngài còn cho ta thêm gấp bội những gì ta đã có nữa: «Chẳng ai bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau» (Mc 10,29-30).

Câu Mt 10,37-38 vừa nêu – «Ai yêu cha mẹ hơn Thầy…» – không có nghĩa là Ngài bảo ta không được yêu thương quý mến cha mẹ, con cái mình. Trái lại, qua giới răn của Ngài, ta thấy Ngài đòi hỏi ta phải yêu thương, trước hết là những người thân thuộc, rồi đến người ngoài, và thậm chí cả kẻ thù nữa. Để chứng tỏ ta đích thực yêu thương họ, Ngài muốn ta phải thật sự quên mình, sẵn sàng hy sinh cho họ. Ngài chỉ yêu cầu ta –những kẻ muốn thật sự theo Ngàiphải đặt Ngài lên trên tất cả những gì ta yêu quý nhất trên đời. Và nếu có yêu thương quý mến ai, thì đều phải vì Ngài mà yêu thương, vì nhận ra họ là hình ảnh hay hiện thân của Ngài.

Trong thực tế đời thường, ưu tiên chọn lựa Thiên Chúa là coi việc thực hiện thánh ý của Ngài quan trọng hơn làm theo ý riêng mình hoặc ý muốn hay lệnh truyền của bất kỳ ai khác, dù người ấy là cha mẹ, bề trên, vua chúa, chính quyền hay giáo quyền. Mà thánh ý Ngài chính là mọi người biết yêu thương và hy sinh cho nhau (x. Ga 13,34-35;15,12.17)

●  Thánh ý Ngài cũng được phản ảnh qua tiếng lương tâm của ta khi lương tâm ấy được xây dựng trên nền tảng đức ái.

●  Ngoài ra thánh ý Ngài còn được biểu lộ qua lệnh truyền của cha mẹ, bề trên, vua Chúa, chính quyền, giáo quyền khi lệnh truyền này không phản lại tinh thần yêu thương của Ngài.

●  Thánh ý Ngài cũng đòi hỏi ta hy sinh lợi ích cá nhân cho lợi ích chính đáng của tập thể, hoặc hy sinh lợi ích của tập thể nhỏ (chẳng hạn gia đình mình) cho lợi ích chính đáng của tập thể lớn (chẳng hạn xã hội, tổ quốc mình).



3.  Những trường hợp chọn lựa đặc biệt

Trong đa số hay trong hầu hết các trường hợp, quan niệm hay lệnh truyền của cha mẹ, bề trên, vua chúa, chính quyền, giáo quyền thường được coi là phù hợp với quan niệm hay lệnh truyền của Thiên Chúa. Vì thế, ta phải vâng theo lời chỉ dạy và lệnh truyền của những người trên ấy, nhất là khi ta chưa xác định được quan niệm và ý muốn của Thiên Chúa thế nào. Tuy nhiên không phải quan niệm và ý muốn của họ luôn luôn phù hợp với quan niệm và ý muốn của Thiên Chúa. Khi ta biết rõ quan niệm hay lệnh truyền của những bậc bề trên ấy không phù hợp với quan niệm hay lệnh truyền của Thiên Chúa, thì ta «phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm» (Cv 5,29). Vâng lời các bậc bề trên trong trường hợp này không phải là đức vâng lời, nghĩa là không đẹp lòng Thiên Chúa.

Nếu không gặp những trường hợp ngặt nghèo khiến ta phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và những gì ta yêu quý nhất, thì ta không biết được ta yêu mến Thiên Chúa đến mức nào, vì trên nguyên tắc, ta vẫn chủ trương phải yêu quý Ngài hơn hết mọi sự. Và ta tưởng mình thật sự yêu Ngài như vậy. Nhưng khi phải chọn lựa giữa Ngài với một người hay một vật nào đó mà ta yêu quý, ta mới thấy mình không yêu mến Thiên Chúa như mình tưởng. Rất có thể trong những trường hợp cụ thể nào đó, đối tượng ưu tiên ta chọn không phải là Thiên Chúa (hay Đức Giêsu), mà là một nhân vật, một tập thể, hay một thực tại nào đó. Có những trường hợp đặc biệt mà ta phải chọn một trong hai, như:

●  Giữa Thiên Chúa và người mình yêu thương nhất trên đời: Chẳng hạn có người được Chúa mời gọi hiến dâng trọn cuộc đời mình cho Chúa để làm tông đồ chuyên nghiệp cho Ngài, nhưng cha mẹ họ thì lại muốn họ lập gia đình để nối dõi tông đường, hay gia đình họ chỉ muốn họ dành trọn tình yêu, thì giờ, sức lực cho gia đình. Hoặc như đôi nam nữ kia yêu thương nhau thật chân thành và tha thiết, nhưng một người cảm thấy tiếng Chúa mời gọi hiến dâng cuộc đời mình cho Ngài, đang khi người mình yêu chỉ muốn mình dành cả cuộc đời mình cho họ.

●  Giữa Thiên Chúa và sự nghiệp: Một thanh niên có tương lai thật tươi sáng, có thể tạo lập được một sự nghiệp lớn lao. Nhưng chàng lại nghe thấy tiếng Chúa kêu gọi mình dấn thân phục vụ người nghèo, người bị áp bức, tranh đấu cho công lý trong một xã hội đầy bất công. Từ bỏ sự nghiệp để nghe theo tiếng Chúa trong trường hợp này là cả một hy sinh.

●  Giữa Thiên Chúa và tổ quốc: Một người đang sống trong một đất nước có tham vọng chinh phục những nước chung quanh. Điều này nhiều khi buộc người dân phải hành động thất đức đối với những người thuộc các nước chung quanh. Nhiều người nhận ra làm như thế là đi ngược lại tinh thần yêu thương đồng loại của Thiên Chúa. Nhưng nếu mình không chấp hành lệnh của đất nước thì không khỏi gặp phiền nhiễu, bị tẩy chay, chụp mũ…

●  Giữa Thiên Chúa và Giáo Hội: Trong những trường hợp bình thường, Thiên Chúa và Giáo Hội được đồng hóa với nhau: làm theo ý Giáo Hội cũng chính là làm theo ý Thiên Chúa. Nhưng không phải là luôn luôn như vậy

Những người có ơn gọi làm ngôn sứ đôi khi nhờ Thánh Thần soi sáng, có thể nhận ra rõ rệt Giáo Hội đang theo một quan niệm hay một con đường chưa đúng như đã từng xảy ra trong lịch sử. Tiếng Chúa thúc giục trong lòng họ phải làm một điều gì đó để giúp Giáo Hội đi đúng ý Thiên Chúa hơn

Nhưng lên tiếng theo như đòi hỏi của lương tâm mình thường rất dễ bị chụp mũ là chống phá Giáo Hội, có thể bị giáo quyền kết án, «dứt phép thông công», bị đồng đạo tẩy chay, xa lánh, mất đi những quyền lợi tinh thần hay vật chất mà mình đang được hưởng từ Giáo Hội… Như trường hợp thầy dòng Galilê, nữ thánh Jeanne d’Arc, và cách đây mấy thập niên là hai nhà thần học Karl Rahner và Yves Congar, v.v… Chính Đức Giêsu cũng bị giáo quyền thời ấy chụp mũ, bách hại và giết chết.

Nếu cứ «mũ ni che tai, ai sai mặc kệ» thì cuộc đời sẽ thật an toàn và thuận lợi, còn làm theo lương tâm thì thật nguy hiểm và cuộc đời có thể sẽ gặp nhiều bất trắc. Vậy thì phải chọn lựa theo ai? Các ngôn sứ đều bị đồng đạo mình bách hại (x. Mt 5,12), «ném đá» (x. Mt 23,27) khi còn sống. Chờ đến lúc đồng đạo mình hiểu mình, nhận ra mình hoàn toàn đúng, thì mình đã hóa ra người thiên cổ (x. Mt 23,29-31). Số phận các ngôn sứ đích thực hầu hết đều như vậy. Trong những trường hợp này, có rất nhiều người lựa chọn: thà làm người của Giáo Hội thì có lợi cho mình hơn là làm người của Thiên Chúa, của sự thật, của công lý. Làm ngôn sứ đích thực quả thật không dễ!




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, nếu con không ưu tiên chọn Cha hay Đức Giêsu mà chọn một đối tượng nào khác, thì suy cho cùng, hóa ra con chỉ lựa chọn chính con, vì những lợi ích trần tục nào đó của con. Nhưng Đức Giêsu cho biết: «Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được» (Mt 10,39). Nghĩa là kết cuộc kẻ chọn chính mình, vì lợi ích của mình, lại là kẻ mất mát và thiệt thòi nhiều nhất. Xin cho con biết khôn ngoan và can đảm dám coi nhẹ chính bản thân và lợi ích của con để luôn luôn dành mọi ưu tiên cho Cha hay Đức Giêsu. Amen.


TN13a ‒ Yêu Thiên Chúa và tha nhân là yêu chính mình một cách sáng suốt nhất




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 13 Thường Niên

(28-06-2020)


Yêu Thiên Chúa và tha nhân
là yêu chính mình một cách sáng suốt nhất




ĐỌC LỜI CHÚA

  2V 4,8-11.14-16a: (9) Bà ấy nói với chồng: «Này ông! Tôi biết người thường ghé vào nhà chúng ta là một thánh nhân của Thiên Chúa.  (10) Mình phải làm cho ông một căn phòng nhỏ trên lầu có tường có vách, rồi kê ở đó một cái giường, đặt bàn ghế và để một cái đèn cho ông dùng. Như thế, khi nào đến nhà mình, ông sẽ lui vào đó».

  Rm 6,3-4.8-11: (8) Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Kitô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. (11) Anh em hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi, nhưng nay lại sống cho Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu.


  TIN MỪNG: Mt 10,37-42

Từ bỏ mình để theo Đức Giêsu

(37) «Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. (38) Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. (39) Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được.


Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy

(40) «Ai đón tiếp anh em là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy. (41) Ai đón tiếp một ngôn sứ, vì người ấy là ngôn sứ, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc ngôn sứ; ai đón tiếp một người công chính, vì người ấy là người công chính, thì sẽ được lãnh phần thưởng dành cho bậc công chính. (42) Và ai cho một trong những kẻ bé nhỏ này uống, dù chỉ một chén nước lã thôi, vì kẻ ấy là môn đệ của Thầy, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu».




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Yêu bản thân mình có phải là điều tốt hay chính đáng không? Tại sao? Nhưng tại sao Đức Giêsu lại nói: «Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được» (Mt 10,39). Có gì mâu thuẫn và không hợp lý chăng? 
2. Tại sao yêu Chúa và yêu tha nhân thì sẽ được hạnh phúc vĩnh cửu, được sự sống đời đời? Có thể lý giải cách nào không?

Suy tư gợi ý:

1.  «Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất»

Người ta ai cũng yêu mình. Đó là điều rất tự nhiên và chính đáng. Chính Đức Giêsu đã từng nói: «Hãy yêu đồng loại như yêu chính mình» (Mt 19,19). Thánh Phaolô cũng nói: «Chồng phải yêu vợ như yêu chính thân thể mình. Yêu vợ là yêu chính mình. Không ai ghét thân mình bao giờ» (Ep 5,28-29). Chính vì yêu mình, nên ai cũng có bản năng tự vệ, tự giữ lấy mạng sống, và không ai chịu liều mất mạng sống mình nếu không phải vì những lý do rất đặc biệt. Thế mà Đức Giêsu lại nói: «Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được» (). Có gì mâu thuẫn và không hợp lý chăng?

Ai cũng yêu mình, nhưng có hai cách yêu: yêu mình cách sáng suốt, và yêu mình cách ngu xuẩn. Yêu mình cách sáng suốt là yêu làm sao để chính mình được hạnh phúc. Còn yêu mình cách ngu xuẩn là yêu mình nhưng lại làm cho mình đau khổ. Vấn đề mấu chốt của việc yêu mình sáng suốt là ở chỗ nhận định được mình là gì, và những gì là mình.



2.  Yêu mình cách sáng suốt và yêu mình cách ngu xuẩn


a) Minh họa 1: 

Một người thích uống rượu, thích ăn những đồ ăn nhiều chất mỡ. Nhưng bác sĩ khuyên anh ta đừng uống rượu kẻo hại gan, đừng ăn đồ nhiều mỡ kẻo hại mạch máu. Nhưng anh ta nghĩ: gan không phải là mình, mạch máu cũng không phải là mình, chúng làm sao thây kệ chúng, không liên quan gì tới mình cả. Mình thương mình thì mình cứ ăn uống cho thỏa thích: «Vui xuân kẻo hết xuân đi, cái già sồng sộc nó thì theo sau»! (Ca Dao) Chẳng bao lâu sau, anh bị viêm gan và cao huyết áp trầm trọng, phải đau đớn rất nhiều, và cuối cùng chết sớm.

Cái sai lầm của anh này là nghĩ gan của mình, dạ dày của mình, phổi của mình… không phải là mình, nên không thương chúng, bỏ mặc chúng không thèm chăm sóc, để rồi chúng bị thương tổn, bị bệnh. Khi chúng bị bệnh thì bản thân anh cũng bị bệnh theo. Lúc đó anh mới biết chúng cũng là mình, thương chúng chính là thương mình, chăm sóc chúng chính là chăm sóc mình. Còn thương mình kiểu cứ ăn uống cho mình được thỏa thích bất chấp chúng ra sao thì ra, chính là làm hại mình, là tự giết mình.

b) Minh họa 2: 

Một anh có vợ và một bầy con, nhưng anh chẳng quan tâm gì tới vợ con, anh chỉ biết lo cho bản thân anh, thậm chí còn đánh đập vợ con không thương tiếc khi bị trái ý. Anh còn mèo chuột lăng nhăng làm vợ con rất đau khổ. Chẳng bao lâu sau anh bị bệnh, không còn làm được việc gì. Lúc này anh rất cần vợ con nuôi dưỡng, chăm sóc anh. Nhưng vì anh đã đối xử quá tệ với vợ con, nên bây giờ anh bị hất hủi và đau khổ. Bây giờ anh mới nhận ra thương vợ con là thương chính bản thân mình, và chăm sóc vợ con cũng là chăm sóc chính bản thân mình.

Chúng ta còn có thể đưa ra nhiều minh họa khác chứng tỏ: quần áo ta mặc, đôi giày ta đi dưới chân cũng là bản thân ta, những người sống chung quanh ta cũng chính là bản thân ta, v.v… Bên Phật giáo, từ ngữ «tăng thân» có nghĩa là thân được thêm vào bản thân của ta, bao gồm tất cả mọi người, mọi vật trong vũ trụ mà ta có cảm tưởng là ở bên ngoài ta. Theo giáo lý Đức Phật, tất cả mọi chúng sinh và tất cả những vật vô tri trong vũ trụ cũng là bản thân ta. Ta yêu chúng cũng là yêu chính ta, ta ghét chúng cũng là ghét chính ta. Ta làm cho chúng tốt đẹp hạnh phúc cũng chính là làm cho ta nên tốt đẹp hạnh phúc. Ta làm cho chúng xấu xa đau khổ cũng chính là làm ta nên xấu xa đau khổ. Vì thế, yêu mình một cách sáng suốt chính là biết yêu thương tất cả mọi người, mọi vật. Yêu mình một cách ngu xuẩn là do quan niệm về mình một cách quá giới hạn, tưởng rằng mình chỉ là thân xác mình, và chỉ biết đối xử tốt với nó, còn mặc kệ không thèm quan tâm chăm sóc đến những gì không phải là thân xác mình.



3.  Thiên Chúa chính là bản thân sâu thẳm nhất của ta

Thánh Âu Tinh nói: «Thiên Chúa còn thân mật với tôi hơn chính bản thân tôi thân mật với tôi» (Deus intimior intimo meo). Nói cách khác, Thiên Chúa còn là tôi hơn cả chính bản thân tôi, Thiên Chúa là «cái tôi» sâu xa nhất của tôi. Chính vì thế, yêu Chúa bao nhiêu thì cũng là yêu mình bấy nhiêu. Và tương tự, yêu tha nhân thế nào cũng chính là yêu mình thế nấy. Thiên Chúa, tha nhân, và bản thân ta, một cách nào đó chỉ là một. Theo triết lý nhất nguyên của Đông phương, thì toàn thể những gì hiện hữu chỉ là một bản thể duy nhất, được thể hiện thành muôn vật dưới muôn hình vạn trạng trong thế giới hiện tượng. Trong nhãn quan của triết lý này, ta cảm thấy rất dễ hiểu việc yêu Thiên Chúa, yêu tha nhân cũng là yêu chính bản thân ta.

Chỉ có một điều là ta có thể cảm nghiệm được thân xác ta là ta một cách trực tiếp, nhưng phải có trí tuệ cao mới có thể cảm nghiệm được Thiên Chúa hay tha nhân cũng chính là ta một cách gián tiếp. Thực ra, ta chỉ có thể cảm nhận một cách trực tiếp nhất ý nghĩ của ta là ta, rồi mới cảm nghiệm được thân xác ta với các cơ quan của nó là ta. Vì thế, những gì ta lo cho thân xác ta thì có hậu quả thấy được ngay trước mắt. Còn những gì ta lo cho Thiên Chúa, cho tha nhân thì phải một thời gian sau –nghĩa là lâu hơn ít nhiều– mới thấy được hậu quả nơi ta.

Điều ấy có khác gì hai cách dùng tiền: một đằng là dùng tiền để mua ngay những gì cần thiết hay ích lợi cho bản thân, một đằng là dùng tiền để kinh doanh hầu có lợi lâu dài về sau. Cách trước thì sự hưởng thụ ích lợi đến ngay với mình, nhưng chỉ một thời gian là hết. Cách sau thì sự hưởng thụ đến với mình có thể rất chậm, nhưng sẽ rất lâu dài, thậm chí không bao giờ hết. Từ đó ta hiểu được tại sao yêu Thiên Chúa và tha nhân thì có được sự sống đời đời hay hạnh phúc vĩnh cửu, còn lối sống ích kỷ thì chỉ có được sự sống hay hạnh phúc tạm bợ mà thôi, để rồi sau đó là sự chết hay đau khổ lâu dài.



4.  Hãy yêu Thiên Chúa hơn cả cha mẹ, anh em, con cái mình

Như đã nói trên, Thiên Chúa và tha nhân một cách nào đấy cũng chính là bản thân mình, nên yêu Thiên Chúa và tha nhân cũng là yêu chính bản thân mình. Nhưng, theo quan điểm của Thánh Augustinô, Thiên Chúa mới chính là bản thân mình một cách sâu xa nhất. Vì thế, để yêu mình một cách sáng suốt và đem lại hạnh phúc lâu dài, người ta nên hy sinh bản thân cho tha nhân và Thiên Chúa. Và yêu tha nhân cũng chính là yêu Thiên Chúa (x. Mt 25,40.45). Thiên Chúa thì trừu tượng, không thấy được, nên yêu Chúa một cách cụ thể là yêu tha nhân, nhưng hãy ưu tiên yêu người gần gũi với mình nhất, rồi đến những người xa hơn, và phải yêu thương tất cả không trừ một ai, dù là kẻ thù. Thánh Gioan viết: «Nếu ai nói : “Tôi yêu mến Thiên Chúa” mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối ; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20)

Nhưng giả như có sự xung đột giữa việc yêu Chúa và yêu tha nhân, thì ta luôn luôn phải dành ưu tiên cho Thiên Chúa. Nhưng một cách thực tế, yêu Thiên Chúa luôn luôn đồng nghĩa với yêu tha nhân, nên trong những trường hợp có sự xung đột này, ta thường phải hy sinh tình yêu tha nhân mang tính cá biệt cho tình yêu tha nhân mang tính đại đồng. Một cách cụ thể là phải đặt tình yêu chung lên tình yêu riêng, tình yêu đối với thế giới, với quê hương đất nước, với xã hội và Giáo Hội lên trên tình yêu đối với cha mẹ, anh em, con cái. Và làm như thế chính là yêu cha mẹ, anh em, con cái một cách sáng suốt nhất.

Trong một nhãn quan bao quát như trên, ta hãy đọc lại bài Tin Mừng hôm nay, ta sẽ thấy bài Tin Mừng trở nên dễ hiểu hơn trước rất nhiều.



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, bây giờ con mới hiểu rõ tại sao mà con phải yêu Cha và yêu tha nhân. Bây giờ con mới hiểu yêu Cha và yêu tha nhân chính là yêu bản thân con một cách sáng suốt nhất, là đem lại hạnh phúc lâu dài cho bản thân con. Bây giờ con mới hiểu câu nói của thánh Phanxicô Assisi trong «Kinh Hòa Bình»: «Chính lúc quên mình (để yêu Thiên Chúa và tha nhân) là lúc gặp lại bản thân». Xin cho con biết yêu con bằng cách yêu Thiên Chúa và tha nhân một cách tích cực và chân thành. Amen.

Nguyễn Chính Kết




Saturday, June 13, 2020

TN12b - Tình yêu giúp ta thắng vượt sợ hãi để làm chứng cho Thiên Chúa




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 12 Thường Niên

(21-06-2020)

Bài đào sâu

Tình yêu giúp ta thắng vượt sợ hãi để làm chứng cho Thiên Chúa

 ► Video: https://youtu.be/zV8EtIzkjYY


  TIN MỪNG: Mt 10, 26-33

Hãy nói giữa ban ngày, đừng có sợ


Câu hỏi gợi ý:
1. Cảm thấy sợ hãi khi gặp nguy hiểm là điều tốt hay xấu? Tại sao?

2. Trước hai tệ hại –cái lớn cái nhỏ– mà ta không thể tránh cả hai, thì ta nên đón nhận cái nào? Khi chịu cái hại nhỏ để tránh được cái hại lớn, thì ta nên vui lòng đón nhận hay phải miễn cưỡng chấp nhận?

3. Cái gì khiến cho một người mẹ xông vào đám cháy để cứu con mình? Tình yêu đối với Thiên Chúa và đồng loại có thể giúp ta thắng vượt sợ hãi không?

4. Thiên Chúa có quan tâm tới ta khi ta chấp nhận nguy hiểm vì tình yêu Ngài không?


Suy tư gợi ý:

1.  Biết sợ hãi là một ơn huệ của Thiên Chúa

Một trong những điều rất thông thường thuộc bản năng của con người là biết sợ hãi. Bản năng biết sợ hãi là do Thiên Chúa đặt để ngay trong bản tính con người, nhờ đó con người –và cả loài vật nữa– mới biết tự vệ và tránh được những khó khăn, bất lợi, tai nạn, đau khổ, chết chóc có thể xảy đến với mình. Bản năng biết sợ ấy là điều tốt lành: Thiên Chúa muốn con người biết sợ hãi, và có rất nhiều nỗi sợ hãi là tốt lành, đẹp lòng Thiên Chúa

Thật vậy, sau khi tạo dựng con người. Ngài đã nói với con người: «Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn; nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết» (St 2,16-17). Qua câu Thánh Kinh này, ta thấy Thiên Chúa muốn con người biết sợ chết, và việc xa tránh cái chết bằng cách vâng lời Thiên Chúa là một sự khôn ngoan. Trong một số trường hợp nào đó, người không biết sợ có thể là do thiếu trí khôn, thiếu sáng suốt, không nhận ra những nguy hiểm đang xảy đến với mình. Người ta thường dùng từ ngữ «điếc không sợ súng» để chỉ những người này. Tuy nhiên, Thiên Chúa muốn con người phải làm chủ được bản năng sợ hãi của mình, để vượt thắng nỗi sợ khi cần phải làm những điều lương tâm và tình yêu đòi buộc.



2.  Phải sợ cái đáng sợ hơn, và chấp nhận cái tệ hại nhỏ hơn

Tuy nhiên giữa những điều tệ hại, có những tệ hại nhỏ hơn và có những tệ hại lớn hơn. Người khôn ngoan là người nhận định chính xác tệ hại nào lớn hơn, tệ hại nào nhỏ hơn. Khi có hai điều tệ hại mà ta không thể tránh được cả hai, thì người khôn ngoan phải biết sợ và tránh điều tệ hại lớn hơn cho dù chưa xảy đến, vì nó gây đau khổ nhiều hơn; đồng thời biết chấp nhận tệ hại nhỏ hơn cho dù nó sẽ xảy ra ngay trước mắt. Thật là ngu xuẩn nếu ta tránh tệ hại nhỏ để phải chịu tệ hại lớn hơn.

Tuy nhiên, người có bản lãnh, có trí tuệ, mặc dù biết sợ, nhưng luôn luôn làm chủ được bản năng biết sợ của mình để can đảm chấp nhận những tệ hại nhỏ hơn trước mắt hầu tránh được những tệ hại lớn hơn về sau; hoặc can đảm chấp nhận những tệ hại cho cá nhân mình hầu tránh những tệ hại lớn hơn cho tập thể hay xã hội

Một khi đã nhận thức và chấp nhận điều tệ hại nhỏ hơn, thì ta không còn sợ hãi nó nữa. Người hèn nhát là người sợ khổ, sợ chết đến nỗi không dám làm theo đòi hỏi của lương tâm, sẵn sàng tránh những tệ hại nhỏ cho cá nhân mình để bắt cả xã hội hay tập thể phải gánh chịu những tệ hại lớn lao vì mình… Cũng cần phân biệt: người nhát gan vẫn có thể không hèn, mà người bạo dạn đôi khi lại rất hèn.

Đức tin giúp chúng ta nhận ra được rằng: tệ hại lớn nhất trên đời là những gì làm thiệt hại cho linh hồn mình, cho sự sống vĩnh cửu của mình đời sau. Vì thế, người có đức tin có thể chấp nhận dễ dàng những tệ hại chóng qua ở đời này hầu đạt được những lợi ích lâu dài cho đời sống vĩnh cửu mai hậu. Trong chiều hướng này, Đức Giêsu khuyên ta: «Anh em đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục» (Mt 10,28). Bị giết chết thân xác là một trong những điều đáng sợ nhất ở đời này, nhưng với cái nhìn sâu xa của đức tin thì bị «tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục» còn đáng sợ hơn bội phần. Vì thế, thà bị giết thân xác mà cứu được linh hồn mình thì vẫn có lợi hơn. Đức Giêsu nói: «Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy» (Mt 16,25).

Nhưng than ôi, biết bao người sẵn sàng chấp nhận bị «tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục» (Mt 10,28) chỉ để tránh khỏi cái khổ cực hay cái chết thể xác, hoặc để thân xác được hưởng những vui sướng chóng qua ở đời này. Trước mặt thế gian, họ được coi là khôn ngoan, nhưng trước mặt Thiên Chúa, họ là những kẻ ngu xuẩn nhất. Đức Giêsu nói: «Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất linh hồn, thì nào có lợi gì?» (Mt 16,26).



3.  Tình yêu giải phóng khỏi sợ hãi

Tuy nhiên, chỉ biết so sánh giữa hai tệ hại để tránh tệ hại lớn và chấp nhận tệ hại nhỏ thì có vẻ tính toán quá. Thiên Chúa muốn ta hành động theo sự thúc đẩy của tình thương chứ không chỉ theo sự co cụm của sợ hãi, hay theo sự tính toán hơn thiệt. Thánh Gioan viết: «Tình yêu không biết đến sợ hãi, trái lại, tình yêu hoàn hảo loại trừ sợ hãi, vì sợ hãi gắn liền với hình phạt và ai sợ hãi thì không đạt tới tình yêu hoàn hảo» (1Ga 4,18). Tình yêu giúp ta vượt thắng sợ hãi, để không còn sợ hãi nữa. Hình ảnh một bà mẹ yếu ớt không ngần ngại xông vào căn nhà đang cháy để cứu đứa con của mình đang bị mắc kẹt trong đó là một minh họa sống động nói lên điều ấy. 

Chính khi thắng được sợ hãi để thể hiện tình yêu, ta mới chứng tỏ được tình yêu ấy là lớn lao và chân thật: «Friend in need, friend indeed» (bạn lúc cùng khốn là bạn thật). Tình yêu –đối với Thiên Chúa và tha nhân– có thắng vượt được sợ hãi mới chứng tỏ là tình yêu chân thực. Thắng vượt được nỗi sợ càng lớn bao nhiêu thì tình yêu của ta càng chứng tỏ được là lớn lao bấy nhiêu.

Chính nhờ tình yêu và lòng nhiệt thành với Thiên Chúa và tha nhân mà ta dám chấp nhận tất cả. Nó giúp ta vượt được những nỗi sợ hãi mà thế gian có thể gây cho ta khi loan báo Tin Mừng, khi làm tông đồ, khi tranh đấu cho chân lý, công lý và tình thương. Càng sẵn sàng chấp nhận đau khổ, sẵn sàng «vác thánh giá» vì yêu thương, ta càng bớt sợ hãi. Tình yêu càng tăng thì sợ hãi càng giảm; do đó sở dĩ sợ hãi nhiều là do yêu thương ít.



4.  Niềm tin vào sự quan phòng giúp ta bớt sợ hãi

Nhưng không phải là cứ chứng tỏ tình yêu bất chấp nguy hiểm thì chắc chắn ta sẽ gặp phải nguy hiểm và khốn khổ đâu. Vì Thiên Chúa luôn quan phòng và chở che ta. Đức Giêsu nói: loài chim sẻ chẳng đáng giá bao nhiêu thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Thiên Chúa, huống chi chúng ta là những con người quý giá hơn chim sẻ vô cùng (x. Mt 10,29.31). Chúng ta quý giá trước mặt Thiên Chúa đến nỗi Ngài đã hy sinh Con của Ngài để chúng ta «ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời» (Ga 3,16); và «Đức Kitô đã chết vì chúng ta ngay khi chúng ta còn là những kẻ tội lỗi» (Rm 5,8; x. 1Cr 15,3). Vì thế, không có gì xảy ra cho chúng ta mà không do ý muốn yêu thương của Ngài

Do đó, ta đừng sợ khi tình yêu đòi hỏi ta phải dấn thân, khi lòng nhiệt thành tông đồ thúc đẩy ta phải mạnh dạn rao giảng, khi tình yêu đối với người nghèo khổ thúc giục ta phải tranh đấu, lên tiếng cho công lý, chống lại áp bức bất công.



5.  Đừng quá sợ nguy hiểm khi làm việc cho Thiên Chúa

Khi sai các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã báo trước những khó khăn mà các ông sẽ gặp phải: «Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói» (Mt 10,16); «Họ sẽ nộp anh em cho các hội đồng, và sẽ đánh đập anh em trong các hội đường của họ. Và anh em sẽ bị điệu ra trước mặt vua chúa quan quyền vì Thầy để làm chứng cho họ và các dân ngoại được biết» (Mt 10,17-18). Nếu Đức Giêsu đã gặp nguy hiểm và bị bách hại, chắc chắn những người tiếp tục sứ mạng của Ngài cũng phải như vậy: «Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ. Trò được như thầy, tớ được như chủ, đã là khá lắm rồi. Chủ nhà mà người ta còn gọi là quỉ vương Bendêbun, huống chi là người nhà» (Mt 10,24-25). Nhưng trong bài Tin Mừng này Đức Giêsu đã lập lại 3 lần câu «đừng sợ!» (Mt 10,26.28.31).

Trước nguy hiểm mà đừng sợ sao được? Chỉ có tình yêu và hạnh phúc do tình yêu ấy đem lại mới giúp ta thắng vượt sợ hãi và chấp nhận nguy hiểm: «Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao. Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế» (Mt 5,11-12). Hoạn nạn vẫn có thể xảy ra để trắc nghiệm niềm tin và lòng trung thành của ta đối với Thiên Chúa: «Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi ng ười thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát» (Mt 10,22). Đau khổ vì Ngài, hay chết vì Ngài không bao giờ là vô ích: «Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài» (2Tm 2,11-12; x Rm 6,8; 8,17). Và «những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18).




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, xin cho con cảm nghiệm được tình yêu vô biên của Cha dành cho con. Cho con biết đáp lại tình yêu ấy một cách quảng đại bằng sự dấn thân không sợ hãi cho công việc của Cha, cho việc tạo bình an và hạnh phúc cho những người chung quanh con. Xin cho con dám chấp nhận mọi đau khổ có thể xảy đến vì sự dấn thân của con. Chỉ như thế con mới chứng tỏ được tình yêu của con đối với Cha và với mọi người là chân thực.

Nguyễn Chính Kết



Bấm vào đây để trở về bài chia sẻ: 
Niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa giúp ta thắng vượt sợ hãi
(https://chiasethanhuu.blogspot.com/2020/06/tn12a.html)