Sunday, May 26, 2019

ThangThienb - Đức Giêsu trao trách nhiệm gì cho người Kitô hữu trước khi Ngài về trời?




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật Lễ Chúa Lên Trời

(29-05-2022)

Bài đào sâu

Đức Giêsu trao trách nhiệm gì
cho người Kitô hữu trước khi Ngài về trời?


  TIN MỪNG: Lc 24,46-53

Đức Giêsu được đưa lên Trời



Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Thiên Chúa đã hoàn tất công trình cứu chuộc nơi Đức Giêsu, mà con người vẫn còn tội lỗi và đau khổ? Công trình Ngài còn thiếu gì nữa? 
2. Tại sao con người lại phải cộng tác vào công trình của Ngài? Ngài làm hết tất cả không được sao? 
3. Đức Giêsu đến để cứu rỗi tất cả nhưng theo từng cá nhân riêng lẻ, hay Ngài muốn cứu toàn thế giới với tư cách toàn thể (chứ không chỉ cá nhân)? 
4. Người Kitô hữu có cần quan tâm và tìm cách giải quyết những vấn đề xã hội trong khả năng của mình không?


Suy tư gợi ý:

1. Công trình cứu chuộc nhân loại đã hoàn tất nhưng chưa xong

Đức Giêsu đã đến trần gian, đã dạy dỗ nhân loại, đã chịu chết, đã sống lại, và đã hoàn tất công trình cứu chuộc trần gian của Ngài. Nhưng trần gian trong thực tế vẫn chưa được cứu, vẫn còn biết bao đau khổ và tội lỗi đang tiếp tục diễn ra khắp nơi tại trần gian. Hoàn tất nhưng chưa xong, nghĩa là sao? 

Thưa: Công trình cứu độ trần gian gồm hai phần: phần của Thiên Chúa, và phần của con người. Đức Giêsu mới chỉ làm xong phần của Ngài, tức phần của Thiên Chúa. Việc cứu độ trần gian chỉ được hoàn thành với sự cộng tác và tiếp tục của con người. Vì thế, trước khi về trời, Đức Giêsu đã nhắc lại cho các môn đệ bổn phận của các ông là phải tiếp tục rao giảng, để con người hoàn thành công trình cứu chuộc của Ngài nơi chính bản thân mỗi người, đặc biệt trong xã hộithế giới: «Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại; Phải nhân danh Ngài mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội» (Lc 24,46-47). Ngài giao trách nhiệm rõ rệt cho các ông, cũng là cho chúng ta, là phải làm chứng cho Ngài: «Chính anh em phải là chứng nhân về những điều này» (Lc 24,48).



2. Để được cứu độ, con người phải hoàn tất phần của mình

Phàm trong mọi chuyện, Thiên Chúa không làm một mình, mà luôn luôn đòi hỏi sự cộng tác của con người. Ngài thường làm phần cơ bản, cốt yếu nhất, và để lại phần rất nhỏ cho chúng ta, mà nếu chúng ta không cộng tác, thì công trình của Ngài đành phải dang dở và trở nên vô ích. Điều ấy rất dễ hiểu. 

Tương tự như cha mẹ lo lắng cho con cái đủ mọi thứ, để con cái được no ấm, đủ phương tiện phát triển nên người. Nhưng dù cha mẹ có lo lắng đến đâu, thì sự hưởng ứng và cộng tác của con cái vẫn là tối cần thiết, không thể thiếu, để những nỗ lực của cha mẹ đạt được kết quả mong muốn. Thật vậy, nếu cha mẹ lo cho con cái cơm bưng nước rót tới tận miệng, nhưng nếu con cái không chịu há miệng đón nhận thức ăn, không chịu nhai và nuốt, thì chúng vẫn đói, và mọi nỗ lực của cha mẹ để chúng khỏi bị đói khát đều trở nên vô ích. Cũng vậy, cha mẹ lo liệu đủ mọi phương tiện cho con học hành, nhưng nếu chúng lười biếng không chịu học, thì cha mẹ có lo cho lắm cũng bằng thừa. Để ích lợi cho con cái, cha mẹ dù có muốn làm hết tất cả mọi sự để con cái không phải làm gì cả, cũng không thể được. Luật tự nhiên không cho phép như vậy.

Thiên Chúa cũng vậy, không hà cớ gì lại muốn chừa phần cho chúng ta, bắt chúng ta phải cộng tác, phải làm phần của mình thì mới được cứu độ hay hạnh phúc! Thiên Chúa dù có muốn làm hết tất cả để chúng ta không phải làm gì cả, cũng không được! Ngài không thể làm gì khác với những điều mà luật tự nhiên đòi hỏi. Vì luật tự nhiên chính là bản tính của Ngài, Ngài không thể hành động phản lại chính Ngài.



3. Để được cứu độ, chúng ta phải làm gì?

Đức Giêsu đã về trời, điều đó có nghĩa là phần việc cứu độ nhân loại của Ngài ở trần gian đã xong. Nếu Ngài không làm phần việc ấy, con người dù có cố gắng nỗ lực đến đâu, cũng không thể tự cứu mình nổi. Nhưng vẫn còn lại phần việc của con người, đặc biệt của các Kitô hữu môn đệ của Ngài, là phải tiếp tục công việc cứu độ ấy cho đến tận thế. Công việc ấy cụ thể nơi mỗi người là gì?

Trước hết, mỗi người phải tự cứu lấy mình bằng cách sống theo giáo huấn và đường lối của Đức Giêsu, là yêu thương tha nhân, và thể hiện tình yêu thương ấy bằng cách làm cho mọi người chung quanh mình trở nên tốt hơn và hạnh phúc hơn.

Kế đến, là mỗi người hãy cố gắng cứu rỗi những người chung quanh mình, bằng cách loan báo Đức Giêsu và công cuộc cứu chuộc của Ngài cho họ, nhất là chính mình sống theo giáo huấn và đường lối của Ngài, là sống yêu thương mọi người, để mọi người cũng tin sống như ta đang sống.

Nếu tất cả mọi người đều biết Đức Giêsu và sống tinh thần yêu thương của Ngài với những người chung quanh, thì chắc chắn xã hội sẽ trở nên tốt đẹp, và thế giới sẽ trở thành Nước Trời. Biến xã hội hay thế giới thành Nước Trời phải là lý tưởng của tất cả mọi Kitô hữu trong cuộc đời của mình.



4. Phải cứu rỗi những người chung quanh ta, phải quan tâm đến xã hội ta đang sống.

Đức Kitô đến không đến chỉ để cứu rỗi từng cá nhân riêng rẽ, mà chủ yếu là để cứu toàn xã hội và thế giới, biến xã hội con người và thế giới thành môi trường lành mạnh, trong đó mọi người đều sống an vui hạnh phúc trong tinh thần yêu thương nhau. Sau khi Ngài về trời, các Kitô hữu có nhiệm vụ tiếp tục sứ mạng của Ngài là cứu rỗi xã hội và thế giới.

Phải cứu rỗi xã hội và thế giới, bằng cách làm cho tinh thần yêu thương, tinh thần từ bỏ mình để phục vụ của Đức Giêsu thấm nhập vào trong đời sống xã hội. Hiện nay, tu đức học của Giáo Hội nhấn mạnh nhiều đến nghĩa vụ của người Kitô hữu trước những vấn đề xã hội. Một Kitô hữu đích thực không thể làm ngơ, lãnh đạm, hoặc không hay biết, hoặc không cố gắng làm gì cả để giải quyết những vấn đề xã hội đang xảy ra chung quanh mình (bất công, đói khổ, thất nghiệp, luân lý suy đồi, các tệ nạn xã hội: tham ô, trộm cướp, mãi dâm, ma túy, bệnh dịch, v.v…) Tinh thần đạo đức kiểu hương nguyện, kiểu cá nhân chủ nghĩa –nghĩa là chỉ biết giữ đạo lấy cho mình, chỉ biết tốt hay nên thánh một mình mình, còn ai tốt hay xấu, sướng hay khổ thế nào thì mặc kệ họ– không còn được chấp nhận nữa. Giáo Hội ngày nay kêu gọi người Kitô hữu gắn bó với xã hội nhiều hơn, quan tâm và ý thức trách nhiệm của mình nhiều hơn trước những vấn đề xã hội.

Con người không thể tự cứu rỗi mình một cách riêng lẻ, độc lập, mà sự cứu rỗi ấy luôn luôn mang tính liên đới với những người chung quanh, với xã hội hay môi trường mình sống. Ta không thể được cứu rỗi nếu ta không quan tâm đến việc cứu rỗi những người trong gia đình ta, những người sống chung quanh ta. Cũng tương tự như ta không thể hạnh phúc đang khi những người trong gia đình ta phải đau khổ, ta không thể sống an ổn đang khi xã hội chung quanh ta đầy nhiễu nhương. Ta chỉ có thể hạnh phúc khi gia đình ta, hay những người chung quanh ta hạnh phúc. Ta chỉ có thể an ổn khi xã hội trong đó ta đang sống được yên lành. 

Hạnh phúc của ta luôn luôn liên đới với hạnh phúc của người chung quanh, phần rỗi của ta cũng luôn luôn liên đới với phần rỗi của những người chung quanh. Do đó, ta phải luôn luôn quan tâm đến sự tốt đẹp, yên lành, hạnh phúc và sự cứu rỗi của xã hội. Một người không quan tâm đến xã hội, đến những vấn đề đang xảy ra trong xã hội, không phải là một Kitô hữu đúng nghĩa.



CẦU NGUYỆN

Lạy Chúa, trước khi lên trời, Chúa đã yêu cầu chúng con tiếp tục sứ mạng của Chúa ở trần gian. Xin cho chúng con –các Kitô hữu– biết ý thức trách nhiệm ấy, đặc biệt trên bình diện xã hội. Xin cho chúng con biết thật sự quan tâm đến sự bình an và hạnh phúc của xã hội, đến những vấn đề xã hội và cố gắng giải quyết trong khả năng của mình. Amen.


No comments:

Post a Comment