Tuesday, July 31, 2018

Hien-Dung − Chúng ta cần thấy được bản chất linh thánh của chính mình và tha nhân




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật Lễ Chúa Hiển Dung

(05-08-2018)


Chúng ta cần thấy được bản chất linh thánh của chính mình và tha nhân



ĐỌC LỜI CHÚA

  Đn 7,9-10.13-14: (9) Tôi đang nhìn thì thấy những chiếc ngai và một Đấng Lão Thành an toạ. Áo Người trắng như tuyết [...]. (13) có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến. (14) Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; […] Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong.

  2Pr 1-16-19: (16) Khi chúng tôi nói cho anh em biết quyền năng và cuộc quang lâm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, thì không phải chúng tôi dựa theo những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo, nhưng là vì chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người. 

  TIN MỪNG: Mc 9,2-10

Đức Giêsu biến đổi hình dạng

(2) Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. (3) Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. (4) Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. (5) Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng : «Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay ! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia». (6) Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. (7) Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng : «Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người». (8) Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. (9) Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. (10) Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu «từ cõi chết sống lại» nghĩa là gì.



CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Điều các tông đồ thấy nơi Đức Giêsu khi Ngài hiển dung trên núi khác với điều các ông thấy nơi Ngài hằng ngày ở chỗ nào? Trường hợp nào các ông thấy được bản chất của Ngài? 
2. Chúng ta cần hành xử với mọi người đúng theo bản chất con người họ, hay theo những gì chúng ta thấy ở bên ngoài? Bản chất đích thực và sâu xa nhất của mỗi người là gì? 
3. Bản chất đích thực của mọi người chung quanh ta –là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa– có hiện ra trước con mắt đức tin của ta không? Ta thường hành xử theo con mắt đức tin hay theo con mắt xác thịt?

Suy tư gợi ý:

1. Bản chất và hiện tượng

Khi cứu xét một sự vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng hay cụ thể… bất cứ triết lý nào, đông phương cũng như tây phương, đều nói đến và phân biệt hai phạm trù căn bản này: bản chấthiện tượng.

Hiện tượng: là những gì hiện ra trước mắt mọi người, thấy được dễ dàng, và thường thay đổi, nay thế này mai thế khác. Chẳng hạn, đối với một người, thì hiện tượng là những gì liên quan đến hình dạng (khuôn mặt, chiều cao, vẻ đẹp, mầu da), khả năng (trình độ văn hóa, nghề nghiệp, chuyên môn, tài nghệ), tính nết (quan niệm, tư tưởng, thói quen, các khuynh hướng), sở hữu (sự giàu nghèo, của cải, nhà cửa), v.v… 

Bản chất: là cái sâu thẳm bên trong, khiến cho một vật là chính nó, chỉ thấy được bằng trí tuệ, và tương đối không thay đổi.



2. Khi Đức Giêsu hiển dung, các tông đồ thấy được bản chất của Ngài

Khi sống với Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được những hiện tượng bên ngoài của Thầy mình: thân xác, thói quen, lời nói, việc làm, với những lời giảng dạy, những phép lạ, v.v… Từ đó các ông dự đoán về bản chất của Thầy mình: trước hết Ngài là một Thầy Đạo vì Ngài dạy về đạo lý, tôn giáo; kế đến Ngài là người được Thiên Chúa sai đến, là người của Thiên Chúa, vì Ngài có thể nhân danh Thiên Chúa mà làm phép lạ, chữa bệnh, trừ quỉ… Sự hiểu biết của các ông về bản chất của Ngài chỉ là dự đoán, căn cứ trên những hiện tượng mà các ông thấy được, tuy đúng, nhưng chưa phải là bản chất đích thực và sâu xa của Ngài.

Nhưng vào thời điểm của bài Tin Mừng này, các ông được nhìn thấy nhãn tiền bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Ngài đứng giữa Môsê và Êlia, là hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ, là hai thực tại nền tảng của tôn giáo Do Thái. Đứng giữa hai ông, điều đó có nghĩa là Ngài lớn hơn hai ông. Toàn cảnh – với y phục rực rỡ, mây trắng bao phủ – biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của Ngài. Câu nói từ trong đám mây phán xuống cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Ngài: «Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người». Vậy thì Ngài chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay là bản chất đích thực của Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy những hiện tượng bên ngoài của Ngài.



3. Chúng ta cần thấy được bản chất của chính mình, của tha nhân

Trong đời sống, chúng ta chỉ nhìn thấy được những hiện tượng bên ngoài của sự vật, của người này người nọ. Và qua những hiện tượng ấy, tâm trí ta tìm kiếm, khám phá ra bản chất của sự vật, của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào những hiện tượng bên ngoài, sự phán đoán của ta về bản chất của sự vật hay của con người có thể sai lầm. Thấy được bản chất đích thực của người, việc, vấn đề ta gặp trong cuộc đời là điều hết sức quan trọng để chúng ta hành xử đúng, thích hợp.

Trong đời sống, rất nhiều khi chúng ta đối xử với người khác, theo những hiện tượng mà ta thấy được nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực của họ. Hiện tượng là cái có thể thay đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế khác: như của cải, tài năng, quyền lực… Thật vậy, nhiều người hôm trước còn giàu nứt khố đổ vách, hôm sau biến thành trắng tay. Nhiều người khi gặp lại sau nhiều năm xa cách, ta không ngờ được tính tình của họ đã đổi trắng thay đen quá nhanh chóng và sâu xa… Nói cụ thể hơn, nhiều khi cách chúng ta đối xử với tha nhân tùy thuộc vào sự giàu nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ… Chúng ta không nhìn vào bản chất đích thực của họ và đối xử theo bản chất ấy.



4. Bản chất đích thực của con người: là hình ảnh và là con cái của Thiên Chúa, được dựng nên giống như Ngài

Sự hiển dung của Đức Giêsu cho các tông đồ và cho cả chúng ta thấy bản chất đích thực của Ngài. Kinh Thánh, hay đức tin, cho ta biết bản chất đích thực và sâu xa nhất của ta và của những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ và ta đều được Thiên Chúa tạo dựng «theo hình ảnh của Ngài» (St 1,27; 9,6; Ep 4,24), «giống như Ngài» (St 1,26; 5,1), để trở thành «con cái Ngài» (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10). Họ và ta đã được Thiên Chúa «ban tặng một điều rất quý báu và trọng đại» là «được thông phần bản tính của Ngài» (2Pr 1,4). Mà bản tính của Ngài là thần linh, nên khi «được thông phần bản tính của Ngài», một cách nào đó, họ và ta cũng mang bản tính thần linh nơi bản chất mình (x. Tv 82,6; Ga 10,35)

Đức tin Kitô giáo cho chúng ta thấy phẩm giá nội tại của con người thật hết sức cao cả. Nếu nhìn bằng con mắt đức tin, và thật sự hành xử đúng theo những gì đức tin đòi hỏi, chúng ta sẽ phải coi trọng chính bản thân mình và mọi người chung quanh ta biết bao! 

Coi trọng bản thân đòi buộc ta phải sống thánh thiện, tốt lành, cao thượng xứng với bản chất cao quí của mình. Sống hèn hạ, tội lỗi không chỉ là tự khinh rẻ bản thân mình, mà còn giống như làm dơ bẩn hay chà đạp hình ảnh của Thiên Chúa. Một cách nào đó, đó là vũ nhục Thiên Chúa. Tương tự như con của một ông vua mà sống một cách hèn hạ, nhục nhã, mất phẩm giá, điều này làm mất mặt nhà vua, làm nhà vua phải xấu hổ trước mặt thần dân.

Coi trọng mọi người đòi buộc chúng ta phải cư xử với họ đúng với bản chất cao quí của họ. Bất cứ ai, hễ đã là người thì ta đều phải coi trọng, cho dù người đó hiện ra thế nào trong thế giới hiện tượng: nghèo nàn, dơ bẩn, hèn hạ, xấu xa, tội lỗi, hay có những hành vi bỉ ổi, đáng khinh… Dù họ thế nào, hễ đã là người, thì họ đáng kính trọng, chính vì bản chất của con người rất cao trọng. Luật pháp các nước nói chung đều cho việc cố ý giết người là một tội nặng, đáng chịu hình phạt nặng nhất, cho dù người bị giết là người có những hành vi hèn mạt hay tội lỗi đến đâu. Điều đó cho thấy luật pháp các nước đã nhìn nhận phẩm giá cao quí của con người, bất chấp con người thế nào.

Là người Kitô hữu, đúng ra ta phải luôn luôn thấy mọi người đều «hiển dung» trước con mắt đức tin của mình, nghĩa là ta phải thấy được bản chất đích thực rất cao quí của mọi người. Nếu ta thật sự tôn trọng và yêu mến Thiên Chúa, thì tất nhiên ta phải tôn trọng và yêu mến con cái của Ngài, hình ảnh của Ngài, là những con người cụ thể chung quanh ta. Thiên Chúa thì vô hình, nhưng hiện thân của Ngài thì rất hữu hình bên cạnh ta, chung quanh ta. Nếu ta không tôn trọng và yêu mến những hiện thân cụ thể ấy của Ngài, thì sự tôn trọng và yêu mến Ngài nơi ta chỉ là một ảo tưởng. Thánh Gioan nói: «Nếu ai nói : "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy» (1Ga 4,20).




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, việc Đức Giêsu hiển dung trước mắt các tông đồ khiến các ông nhìn thấy bản chất đích thực và cao trọng của Ngài là Con Thiên Chúa. Nếu con mắt đức tin của con còn trong sáng, tinh nhuệ, ắt con cũng thấy mọi người chung quanh con «hiển dung» trước mắt con với bản chất rất cao trọng của họ: là hình ảnh và là con cái của Cha. Xin cho con biết biểu lộ lòng yêu mến và tôn trọng Cha một cách cụ thể qua việc yêu thương và quí mến những người đang sống chung quanh con, bất chấp họ là người thế nào.


Thursday, July 26, 2018

TN17b - Hãy yêu thương và chủ động làm những gì tình yêu đòi hỏi




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 17 Thường Niên
(29-7-2018)


Bài đào sâu

Hãy yêu thương
và chủ động làm những gì tình yêu đòi hỏi



1. Đức Giêsu quan tâm cả nhu cầu thể chất của dân chúng

Trong bài Tin Mừng hôm nay (Ga 6,1-15) thuật lại việc Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều lần thứ nhất từ năm chiếc bánh và hai con cá, cũng được ba thánh sử khác là Matthêu, Máccô và Luca tường thuật (trong Mt 14,13-21, Mc 6,30-44 và Lc 9,10-17). Sự việc xảy ra vào ban chiều, khi «ngày đã bắt đầu tàn» (Lc 9,12; x. Mt 14,15; Mc 6,35), và số người đến nghe Ngài giảng rất đông, «nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn» (Ga 6,10; x. Mt 14,21; Mc 6,44; Lc 9,14) chưa kể phụ nữ và trẻ em. 

Vì chiều đã tàn, nghe Ngài giảng đã mệt, chắc chắn nhiều người đã bắt đầu đói, nên Đức Giêsu nghĩ tới việc phải cho họ ăn: «Người hỏi ông Philípphê: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi.» (Ga 6,5-6). Các môn đệ đề nghị Ngài giải tán để họ về nhà (x. Mt 14,15b; Mc 6,36; Lc 9,12b), nhưng Ngài nói: «Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn» (Mt 14,16; Mc 6,37). Các môn đệ chỉ có «năm cái bánh và hai con cá» (Mt 14,17; Mc 6,38b; Lc9,13; Ga 6,9). Từ những bánh và cá ấy, Ngài hóa ra nhiều để tất cả đám dân ấy ăn no, và còn dư được «12 thúng đầy» (Lc 9,42; Mt 14,21; Lc 9,17b; Ga 6,13b).

Như vậy, khi thấy dân chúng mệt và đói, Đức Giêsu đã yêu cầu các môn đệ: «Chính anh em hãy cho họ ăn»  (như trên), và rồi chính Ngài cung cấp bữa ăn trưa cho họ. Điều đó cho thấy, Ngài không chỉ lo thỏa mãn nhu cầu tâm linh cho họ, mà còn cả nhu cầu thể chất của họ nữa. Tình thương của một mục tử đòi buộc phải như thế. Đó cũng là một gương cho các tông đồ cũng như các mục tử của mọi thời đại.




2. Người tông đồ phải có tình thương trong lòng trước đã

Ở những vùng dân chúng rất nghèo –như những vùng truyền giáo cho các dân tộc thiểu số– nhiều khi giáo dân phải đi thật xa hàng mấy chục cây số mới đến được nhà thờ để dâng thánh lễ và học hỏi giáo lý. Nhiều vị chủ chăn đã lo cho họ ăn uống cả hàng trăm người trước khi họ ra về (khi thì cơm, khi bánh mì, khi thì mì ăn liền…). Để thực hiện việc này, một vị linh mục nọ tôi quen biết ở vùng cao nguyên miền Trung Việt Nam, tháng nào cũng phải đi hàng chục hay hàng trăm cây số đến gõ cửa những nhà hảo tâm mà ngài quen biết hoặc được giới thiệu để «ăn mày» giùm cho họ. Thật là một hình ảnh rất đẹp về người chủ chăn! Vị này đã thực hiện lời Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn».

Khi nói câu ấy, Đức Giêsu muốn gây ý thức nơi các tông đồ về tình yêu thương, sự quan tâm mà một mục tử phải có đối với dân chúng. Mặc dù mục đích của người tông đồ là loan báo Tin Mừng chứ không phải là lo chuyện vật chất cho dân chúng. Nhưng khi ta biết dân chúng có nhu cầu thiết yếu nào đó, ta nên thể hiện tình yêu thương của ta đối với họ bằng cách giúp họ thỏa mãn nhu cầu ấy. Dân chúng có yêu thương mình, lời mình rao giảng mới thấm vào lòng họ. Dân chúng có cảm thấy mình yêu thương họ, họ mới hứng khởi thực hiện những điều mình dạy dỗ. Dân chúng bị hấp dẫn đến với Đức Giêsu không chỉ vì Ngài dạy dỗ họ những điều hay lẽ phải cho bằng vì họ cảm thấy Ngài yêu thương họ, vì Ngài quan tâm săn sóc họ, vì Ngài chữa bệnh cho họ, giúp họ giải quyết những khó khăn trong đời sống họ…

Kitô giáo là đạo của tình thương, lấy tình yêu thương làm bản chất của đạo (x. Ga 13,34-35), nên những người rao giảng đạo này phải là người có dồi dào tình thương hơn mọi người, và tình yêu thương ấy phải được chứng tỏ bằng hành động. Truyền đạo không phải chỉ là cung cấp cho người ta có một số kiến thức về Thiên Chúa, về Đức Giêsu hay về Lời của Ngài, mà còn là làm cho họ trở thành môn đệ Ngài, theo Chúa, và sống giới luật yêu thương của Ngài. Chính mình không sống tinh thần yêu thương này, làm sao mình có thể truyền tinh thần yêu thương này cho người khác được?



3. Hãy chủ động phần việc của mình trước đã…

Khi yêu cầu các môn đệ hãy tự mình lo cho họ ăn, Đức Giêsu đã thừa biết khả năng hạn hẹp của các ông, và Ngài cũng đã biết mình phải làm gì. Với quyền năng của Ngài, Ngài có thể biến không khí thành bánh và cá nuôi đám dân chúng, không cần đến 5 chiếc bánh và 2 con cá mà các ông có hay tìm được trong dân chúng. Nhưng Ngài không muốn đơn phương làm như vậy, Ngài muốn có sự góp phần của mọi người. Trước tiên, Ngài muốn chính các tông đồ phải có tình thương, có ý thức trách nhiệm đối với dân chúng và thật sự muốn lo cho họ. Ngài nói: «Chính anh em hãy cho họ ăn». 

Các tông đồ quả có nhận ra nhu cầu của dân chúng, nhưng tình yêu của các ông đối với dân chúng chưa mạnh đủ để có thể lóe lên sáng kiến hay thúc đẩy các ông tìm cách nào nuôi dân chúng. Vì thế, ngay từ đầu các ông đã nghĩ mình bất lực không thể giúp gì họ được, và các ông đề nghị giải tán dân chúng. Nếu các ông có nhiều tình yêu hơn, các ông sẽ nghĩ ra được mình nên làm gì. Chẳng hạn các ông có thể nói với Đức Giêsu: «Bây giờ chúng ta phải lo cho họ ăn, chúng con chưa biết làm cách nào, nhưng chúng con biết Thầy có cách». Nói như thế, các ông vừa tỏ ra tình yêu và ý thức trách nhiệm của mình, vừa tỏ ra tin tưởng vào quyền năng của Thầy mình.

Trong cuộc đời, rất nhiều khi có những việc nào đó ta nên làm hay phải làm nhưng không làm được chỉ vì ta không đủ tình yêu, không đủ nhiệt thành và lòng hăng say. Thiếu yếu tố quan trọng này, ta thường bi quan yếm thế cho rằng mình không thể thực hiện được. Trong một trận chiến, chưa xuất quân mà ta đã nghĩ rằng mình sẽ thua thì quả thật ta đã thua ngay từ đầu ngay trong tư tưởng của mình rồi. Nguyễn Bá Học nói: «Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông». Nhiều việc tốt ta không làm được, không phải vì nó khó hay vì nó không thể làm được, mà vì ta không đủ tình yêu để làm, vì ta đã đầu hàng nó ngay từ trong tư tưởng của ta.

Người Kitô hữu không nên sợ mình không làm được, vì ta luôn luôn có một sức mạnh ở ngay trong bản thân mình, đó là quyền năng của Thiên Chúa. Nếu ta tin tưởng vào quyền năng của Ngài, ta sẽ làm được nhiều việc mà mọi người đều nghĩ rằng ta không thể. Vì «không có sự gì mà Thiên Chúa không làm được» (Lc 1,37). Vì «tôi có thể làm được tất cả nhờ quyền năng của Đấng ban sức mạnh cho tôi» (Pl 4,13). Vì «nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì (…) sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được» (Mt 17,20)

Tại sao có những vị thánh đã làm được rất nhiều phép lạ? Chính vì các ngài có rất nhiều tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân, và vì các ngài tin tưởng vững chắc vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng luôn hỗ trợ cho mình. Tình yêu thúc đẩy các ngài hành động, và lòng tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa khiến hành động của các ngài đi đến thành công.

Người đời vẫn nói: «Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên». Qua bài Tin Mừng về Đức Giêsu hóa bánh ra nhiều này, ta thấy Ngài muốn các tông đồ, tức con người, phải mưu sự trước, và Ngài chỉ là người giúp cho mưu sự ấy thành công. Các nhà tu đức vẫn nói: «nỗ lực rồi cậy trông», nghĩa là chúng ta phải chủ động nỗ lực trước đã, dù nỗ lực ấy chỉ là yếu tố rất nhỏ (chỉ 1%) để thành tựu và phần chủ yếu (có đến 99%) là do Ngài, nhưng nếu không có phần nỗ lực rất nhỏ khởi đầu của ta thì không có sự việc gì thành tựu. Thánh ý Ngài là muốn có phần chủ động của ta. Cho dù ngay cả việc chủ động của ta cũng do Thánh Thần Ngài thúc đẩy, vẫn phải luôn có phần của ta, vì nếu thiếu nó, Thiên Chúa cũng không còn muốn làm phần của Ngài nữa!


***

Thiên Chúa luôn muốn phát triển tình yêu thương trong lòng ta. Ngài muốn mọi điều tốt được thực hiện trên đời này là do sáng kiến của ta, bắt nguồn từ tình yêu thương của ta, chứ Ngài không muốn ta cứ làm theo lệnh Ngài như một cái máy. Ngài rất sung sướng được cộng tác với những công việc tốt đẹp mà chính ta sáng kiến và quyết tâm thực hiện, cho dù sự thành tựu là do Ngài tới 99%. Nhưng Ngài vẫn muốn phải có 1% công lao của ta, mà thiếu nó thì chính Ngài cũng không muốn thực hiện 99% còn lại kia. Chúng ta nên ý thức điều đó. Hãy tự sáng kiến và chủ động trong những việc tốt lành mà với sự cộng tác của Thiên Chúa, ta có thể làm được rất nhiều việc ích lợi cho tha nhân, cho thế giới..


Nguyễn Chính Kết




Sunday, July 22, 2018

TN17 - Đức Giêsu quan tâm đến cả những nhu cầu thực tế của dân chúng




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 17 Thường Niên

(29-7-2018)


Đức Giêsu quan tâm đến cả những nhu cầu thực tế của dân chúng



ĐỌC LỜI CHÚA

  2V 4,42-44: (42) (Với hai mươi chiếc bánh lúa mạch và cốm) ông Êlisa nói: «Phát cho người ta ăn». (43) Tiểu đồng hỏi: «Có bằng này, sao phát cho cả trăm người ăn được?» Ông bảo: «Cứ phát đi! Vì Đức Chúa phán: Họ sẽ ăn, mà vẫn còn dư». (44) Tiểu đồng phát cho họ ăn mà vẫn còn dư.

  Ep 4,1-6: (1) Là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy sống cho xứng với ơn kêu gọi mà Thiên Chúa đã ban cho anh em.

  TIN MỪNG: Ga 6,1-15

Đức Giêsu hoá bánh ra nhiều

(1) Sau đó, Đức Giêsu sang bên kia Biển Hồ Galilê, cũng gọi là Biển Hồ Tibêria. (2) Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. (3) Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với các môn đệ. (4) Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Dothái.

(5) Ngước mắt lên, Đức Giêsu nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Philípphê: «Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?» (6) Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làm gì rồi. (7) Ông Philípphê đáp: «Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút». (8) Một trong các môn đệ, là ông Anrê, anh ông Simôn Phêrô, thưa với Người: (9) «Ở đây có một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với ngần ấy người thì thấm vào đâu!» (10) Đức Giêsu nói: «Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi». Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. 

(11) Vậy, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. (12) Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: «Anh em thu lại những miếng thừa kẻo phí đi». (13) Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. 

(14) Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giêsu làm thì nói: «Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!» (15) Nhưng Đức Giêsu biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giêsu có quan tâm và dấn thân cho những nhu cầu cụ thể –như ăn uống, sức khỏe, sự thoải mái thể chất– của dân chúng không? Nếu không quan tâm đến những nhu cầu cụ thể ấy, Ngài có thể loan báo Tin Mừng một cách hiệu quả không? dân chúng có chịu đến để nghe Ngài dạy dỗ không? 
2. Trong một xã hội đầy bất công, áp bức, nhiều tệ nạn xã hội, người dân phải chịu đựng nhiều đau khổ, mà người tông đồ lại chỉ quan tâm đến nhu cầu tâm linh của họ, không đếm xỉa gì đến những đau khổ, những nhu cầu cụ thể và cấp bách của họ, thì việc tông đồ ấy có kết quả không? Tại sao?  
3. Trong những xã hội đầy bất công như thế, nhu cầu cụ thể và cấp bách của dân chúng là gì? Chúng ta chỉ cần xoa dịu những đau khổ cho dân chúng hay cũng cần giải quyết tận gốc những đau khổ ấy?


Suy tư gợi ý:

1. Đức Giêsu quan tâm tới cả nhu cầu thể chất của dân chúng

Bị cám dỗ sau khi ăn chay 40 ngày, Đức Giêsu nói với Satan: «Người ta sống không nguyên bởi bánh, mà còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra» (Mt 4,4). Nghĩa là con người không chỉ sống bằng thể chất, mà còn sống bằng tinh thần. Hành động của Ngài trong bài Tin Mừng hôm nay dường như muốn nói một câu đồng nghĩa như vậy, nhưng theo chiều ngược lại: «Người ta sống không nguyên bởi Lời Chúa, mà còn sống bởi bánh nữa». Nghĩa là con người không chỉ sống bằng tinh thần, mà còn sống bằng thể chất. Vì con người không chỉ thuần túy là tinh thần hay thần khí, cũng không chỉ là thể chất, mà là cả hai. Nên con người vừa có nhu cầu tinh thần, vừa có nhu cầu thể chấtĐức Giêsu quan tâm tới con người toàn diện, nghĩa là quan tâm tới cả nhu cầu tinh thần lẫn thể chất.

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy điều ấy. Mặc dù sứ mạng của Ngài là cứu độ nhân loại khỏi nô lệ tội lỗi, nghĩa là chủ yếu về mặt tâm linh, nhưng không vì thế mà Ngài quên đi nhu cầu thể chất của con người. Thật vậy, khi «nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình», Ngài liền hỏi môn đệ: «Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?» (Ga 6,5). Thật ra, Ngài có thể để mặc họ trở về nhà với cái bụng lép xẹp, và chắc chắn chẳng ai lên tiếng trách móc Ngài vì đã để mặc họ như vậy. Nhưng Ngài không làm như vậy. Tình thương và sự nhạy cảm đối với đau khổ và hạnh phúc của con người đã thúc đẩy Ngài đáp ứng nhu cầu của họ. Họ cần nghe Ngài rao giảng, nhưng để có thể nghe Ngài, họ cũng cần phải no bụng.

Chính vì Ngài tỏ ra yêu thương họ, quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của họ, mà họ đến với Ngài, sẵn sàng nghe Ngài dạy dỗ. Nếu Ngài không làm như vậy, sẽ có nhiều người chẳng đến với Ngài và chẳng nghe Ngài dạy bảo. Ở Việt Nam, nhiều người truyền đạo trong các tôn giáo khác cũng phần nào làm tương tự như Đức Giêsu: họ mở phòng thuốc, khám bệnh, chữa bệnh và cho thuốc miễn phí, và khi thuận tiện thì nói về đạo pháp cho những ai muốn nghe.

Như vậy, Đức Giêsu không chỉ lo phần rỗi đời sau cho con người, mà còn lo cả những gì cần thiết cho đời sống hiện tại của họ nữa. Ngài cũng ra lệnh cho các môn đệ ngoài việc rao giảng Tin Mừng, còn phải giải quyết những nhu cầu thể chất và cấp bách của họ: «Anh em hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm sống lại kẻ chết, làm sạch bệnh người phong hủi, và khử trừ ma quỷ» (Mt 10-7-8)

Lo cho người ta về thể chất chính là cách biểu lộ tình thương đối với họ, đó là tạo điều kiện để lo cho họ một cách hữu hiệu về tâm linh.



2. Tình yêu đòi buộc ta phải ưu tiên đáp ứng những nhu cầu bức thiết nhất của người chung quanh ta

Nếu ta thật sự yêu thương những người chung quanh ta, ta sẽ hành xử với họ giống như ta vẫn hành xử với những người ta yêu thương nhất, như những người trong gia đình ta. Yêu thương ai, ta sẽ đáp ứng đúng nhu cầu của họ. Cho dù ta là một thầy giáo, một giáo sư đại học, một linh mục hay giám mục, không khi nào ta thấy người thân của ta đói, khát, hoặc bị một ai đó ức hiếp, đánh đập mà ta lại tặng họ một cuốn sách giá trị, hay một cuốn Thánh Kinh, cho dù những thứ đó cũng rất cần thiết cho họ. Nếu ta hành xử như vậy, mọi người sẽ nghĩ ta là người mất trí. Trường hợp đó, trước tiên, ta phải cho họ ăn, uống, hoặc nhảy vào can thiệp để người thân ta khỏi bị đánh đập đau đớn. Thế nhưng hiện nay, có biết bao người mang danh hiến thân phục vụ con người, lại chỉ biết lo cho họ về mặt tâm linh, chẳng đếm xỉa gì đến nhu cầu hết sức cụ thể, bức thiết và trước mắt của họ. Thế mà lúc nào những người ấy cũng vẫn tự hào mình đang hiến thân cho một sứ mạng cao cả là phục vụ con người.

Quả thật, trong xã hội và Giáo Hội vẫn luôn luôn có những con người «cao cả» theo kiểu đó, nghĩa là cao cả một cách phi thực tế. Họ có thể «bình tâm như vại» trước những đau khổ, thiếu thốn, trước những cảnh bất công, áp bức mà những người chung quanh mình phải chịu, trước những bàn tay giơ lên xin họ cứu giúp một cách khẩn thiết và tuyệt vọng. Nhưng những người «cao cả» này vẫn cảm thấy mình không cần phải làm gì cho những người khốn khổ ấy khác hơn là những việc gọi là tâm linh. Và một khi quan tâm lo những chuyện về tâm linh ấy, họ cảm thấy lương tâm mình bình an vì mình đã làm được những việc bác ái rất cao cả. Ngay cả khi làm những việc được gọi là bác ái cao cả ấy, có nhiều vị còn đòi hỏi đối tượng mình phục vụ phải bù đắp lại cho mình một cách cụ thể như những điều kiện phải có, nếu không thì họ sẽ chẳng làm. Nói cách khác, phải được bù đắp cụ thể họ mới chịu làm những việc «cao cả» ấy.


3. Nhu cầu bức thiết của con người trong những xã hội lầm than, nghèo khổ, đầy dẫy bất công áp bức

Trong những xã hội hay đất nước nghèo khổ, đầy dẫy những tệ nạn xã hội, những bất công áp bức, thì nhu cầu bức thiết của người dân rất là cụ thể. Là những người theo Chúa, tuy ta đặt rất nặng mặt tâm linh –đó là điều hợp lý– nhưng ta không thể hoàn toàn lãnh đạm hoặc không biết đến những nhu cầu khẩn thiết và cụ thể của người dân chung quanh ta. Thiết tưởng sống trong một đất nước càng nghèo khổ, càng đầy dẫy sự bất công áp bức, càng lan tràn những tệ nạn xã hội, thì người theo Chúa càng phải quan tâm và dấn thân nhiều hơn cho những vấn đề ấy. Nói cách khác, người theo Chúa đúng nghĩa phải quan tâm đến sự phát triển của con người, sự công bằng của xã hội, và sự tiến bộ của thế giới. Đó là một chiều kích nhân bản không thể thiếu trong việc nên thánh, hay việc nên giống Chúa Giêsu, Đấng «muốn lòng nhân chứ không phải hy lễ» (Hs 6,6; Mt 9,13), lại càng không thể thiếu trong việc tông đồ, trong việc mở mang Nước Trời.

Tông huấn Giáo Hội tại châu Á viết: «Không thể cắt đứt việc thờ phượng Thiên Chúa với việc chăm sóc người yếu kém, được Kinh Thánh mô tả một cách điển hình là “cô nhi, quả phụ và ngoại kiều” (x. Xh 22,21-22; Đnl 10,18; 27,19), là những người dễ bị tổn thương nhất khi có bất công đe dọa. Thánh Gioan Kim Khẩu viết: Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ thứ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng đã nói "Các ngươi thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn tiệc Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát trước đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!» (Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 41§2)

Tinh thần của những câu trên hoàn toàn phù hợp với lời Đức Giêsu: «Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế» (Mt 9,13) hay «Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình» (Mt 5,23,24). Tại sao theo Chúa mà mình lại chuyên môn làm ngược lại tinh thần của Chúa?

Chính vì để ta dễ dấn thân cho anh em đồng loại của ta hơn, đặc biệt trong những hoàn cảnh nguy hiểm của những xã hội đầy áp bức bất công mà Đức Giêsu đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải từ bỏ nhiều thứ thế gian hằng gắn bó. Thật đáng hổ thẹn cho những người tông đồ đã từng cam kết từ bỏ mọi thứ mà lại dấn thân cho anh em không bằng những người không hề cam kết! Thật là mỉa mai khi người tông đồ chủ trương sống độc thân để dễ dàng dấn thân cho đồng loại hơn, lại không thể dấn thân mạnh dạn bằng những người có gia đình! Rất có thể tại vì họ đang sợ mất đi những gì mà họ đã từng cam kết từ bỏ khi dấn thân làm tông đồ!




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, chúng con theo Đức Giêsu, nhưng lại chẳng làm theo gương Ngài. Ngài dùng tình thương để đến với mọi người hầu dẫn họ về với Cha. Còn chúng con, chúng con chỉ muốn dẫn họ về với Cha mà không thèm đến với họ, không cần tỏ ra yêu thương và quan tâm đến những nhu cầu cụ thể bức thiết của họ. Phải chăng chúng con đang làm một chuyện vô ích? và công sức của chúng con đổ ra sẽ chỉ là «công dã tràng»? Xin giúp chúng con noi gương Đức Giêsu, biết yêu thương và quan tâm đến những nhu cầu cụ thể của đồng loại trước khi muốn dẫn họ về với Cha.


Sunday, July 15, 2018

TN16b - Hai loại mục tử trong các thời đại



Hai loại mục tử
trong các thời đại

Chữ «mục tử», từ nguyên thủy, xuất phát từ Thánh Kinh Cựu Ước để chỉ những người lãnh đạo trong tôn giáo cũng như trong xã hội. Nhưng người Kitô hữu thường dùng từ này để chỉ những người lãnh đạo tôn giáo. Tuy nhiên, trong bài này, chữ «mục tử» cần được hiểu theo nghĩa chung chung, là người lãnh đạo trong bất cứ tập thể nào: gia đình, xã hội, tôn giáo, đất nước, v.v... 



1. Đức Giêsu nói về hai loại mục tử

Trong Tin Mừng Gioan, không phải vô tình hay vô ý mà tác giả Tin Mừng này lại đặt liên tiếp hai đoạn Tin Mừng sau đây kế tiếp nhau: 

Đoạn 9 (Ga 9,1-41) nói về việc Đức Giêsu chữa một người mù từ lúc mới sinh vào ngày sabát, và người mù này đã bị những người Pharisêu thời ấy bắt bẻ, hạch hỏi đủ điều chỉ vì được Đức Giêsu chữa khỏi mù trong ngày sabát. Đối với họ, chữa bệnh trong ngày sabát là lỗi một luật tôn giáo rất nghiêm trọng, có thể bị tử hình, như một số sách Cựu Ước đã xác định (x. Xh 31,14,15; 35,2-3; Ds 15,32-36).

Đoạn 10 (Ga 10,1-29), trong đó, Đức Giêsu cho thấy sự khác biệt giữa hai loại mục tử: mục tử thật hay mục tử nhân lành, và mục tử giả hay mục tử chăn thuê mà nhiều lần Ngài muốn ám chỉ một số lãnh đạo tôn giáo thời ấy.

Đoạn Tin Mừng về người mù được chữa lành mô tả những mục tử dỏm –hay những người Pharisêu– là những người chỉ quan tâm đến những luật lệ của tôn giáo chứ không đếm xỉa gì đến những nhu cầu cấp thiết của con người. Họ chỉ muốn dạy và buộc dân chúng thi hành những luật lệ tôn giáo, chứ không màng gì đến những nhu cầu thực tế cần được cứu giúp của dân chúng. Còn Đức Giêsu –người mục tử đích thực– thì hành động ngược lại. Đối với Ngài, «ngày sabát», cũng như lề luật và tôn giáo, «được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày sabát», hay cho lề luật và tôn giáo (Mc 2,27). Đối với Ngài, tất cả mọi luật lệ phải nhằm mục đích thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa được cụ thể hóa thành tình yêu đối với đồng loại (tương tự như chủ trương của thánh Phanxicô Salê trong «Kinh Hòa Bình»: «Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người», «trong mọi người» chứ không phải chỉ trong nhà thờ, trong những lúc cầu nguyện, dâng lễ, v.v... «Mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người» mới chính là cách mà Ngài hài lòng nhất).

Những người Pharisêu muốn thần thánh hóa lề luật và tôn giáo hơn cả con người, đang khi chính con người –vốn «được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,27; 9,6) và «giống như Thiên Chúa» (St 1,26)đáng lẽ phải được coi là linh thánh hơn cả lề luật và tôn giáo. Thật vậy, đành rằng tôn giáo và lề luật đều là linh thánh, nhưng chỉ là những phương tiện phục vụ con người, giúp đưa con người về với Thiên Chúa, chúng «được tạo nên cho con người» chứ không ngược lại (Mc 2,27). Do đó, con người mới chính là mục đích của tôn giáo và lề luật

Thật vậy, ngược với chủ trương của người Pharisêu, Đức Giêsu nói với họ: «Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế» (Mt 9,13). «Lòng nhân» tức tình thương giữa con người với nhau được Ngài coi trọng hơn «lễ tế» là thực thể tượng trưng cho tôn giáo và lề luật. Chỗ khác, Ngài coi chuyện làm hòa với anh em mình, tức cách cư xử giữa con người với nhau, còn quan trọng hơn cả việc dâng của lễ trong đền thờ (x. Mt 5,23-24).

Trái lại, người Pharisêu coi chuyện «nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng» cho đền thờ là điều rất quan trọng, nhưng lại chủ trương «bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng thành thật» (Mt 23,23). Họ coi vàng trong đền thờ còn trọng hơn cả chính đền thờ (x. 23,16-17), coi lễ vật trên bàn thờ còn trọng hơn cả bàn thờ (x. 23,18-19). Sở dĩ họ phải coi lề luật, lễ tế, các nghi thức bề ngoài và những chuyện phụ thuộc ấy là quan trọng (x. Mt 23,16-22), đồng thời dạy mọi người phải quan niệm như vậy… là vì có làm thế, vai trò của họ mới được coi trọng, được đề cao, và mọi người mới chịu dâng cúng vào đền thờ cho nhiều, nhờ đó họ mới có được những lợi lộc cụ thể. 

Nếu quan trọng hóa theo chiều ngược lại như chủ trương của Đức Giêsu, là quan trọng hóa con người, coi thái độ tâm linh bên trong là cốt yếu của tôn giáo, nhấn mạnh đến «công lý, tình thương và lòng thành thật» (Mt 23,23) như cốt tủy của lề luật, coi đền thờ trong tâm hồn (x. 1Cr 3,16-17; 6,19) quan trọng hơn đền thờ bằng gạch đá (x. Cv 7,47-48; 17,24-25), coi thái độ hay tâm tình bên trong quan trọng hơn những nghi thức bên ngoài (x. Mt 7,18-23; 15,8-11; 23,25-26.28; Lc 11,38-39), thì rõ ràng họ không có lợiDạy dân chúng quan niệm sai lầm như thế là một thủ thuật để họ được lợi. Nên Đức Giêsu gọi họ là «những kẻ dẫn đường mù quáng» (Mt 23,16), là «những người mù dắt người mù» (Mt 15,14)

Tuy nhiên, điều khiến cho họ bị kết án không phải là chuyện họ mù, nhưng là chuyện họ không nhận mình là mù, là sai, mà cứ ngoan cố cho mình là đúng, là sáng, lại còn buộc mọi người phải tung hô mình là đúng, là sáng nữa: «Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!» (Ga 9,41).

2. Đức Giêsu mô tả chân dung hai loại mục tử 

Qua bài Tin Mừng về hai loại mục tử (Ga 10,1-21), Đức Giêsu cho ta thấy điều cốt yếu khiến người mục tử đích thực khác với những người mục tử dỏm −được cụ thể hóa trong đoạn Tin Mừng trước (Ga 9,1-41) về những người Pharisêu phản đối việc Đức Giêsu chữa người mù từ thuở mới sinh− ở những điểm sau: 

Người mục tử đích thực thì thật sự yêu thương đàn chiên, luôn luôn nghĩ đến sự sống, lợi ích hay hạnh phúc của đàn chiên, thậm chí quên cả lợi ích hay sự tồn tại của mình, sẵn sàng sống chết vì đàn chiên: «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11). Mối bận tâm lớn nhất của người mục tử đích thực là làm sao để «chiên được sống và sống dồi dào» (10,10): dồi dào về tâm linh, và nếu có thể được thì cả vật chất nữa. Vì đối với người mục tử đích thực, đàn chiên không phải là những con vật mà là con người, là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,27; 9,6), Đấng mà họ phải tôn thờ và hết lòng yêu mến. Sự thánh thiện của người mục tử đích thực hệ tại tình yêu thương mà họ dành cho đàn chiên.

● Còn người mục tử dỏm hay kẻ chăn thuê thì không nghĩ gì đến nhu cầu cũng như nỗi đau khổ của những «con chiên» bất hạnh, chẳng hạn cụ thể như người mù từ lúc mới sinh trong đoạn Ga 9,1-45: chẳng những họ không thương người mù bất hạnh kia, mà còn dùng luật lệ tôn giáo để trách cứ Đức Giêsu vì đã chữa lành cho người mù ấy. 

Trong đoạn Tin Mừng Ga 10,1-21, Đức Giêsu đã mô tả họ như người chỉ nghĩ đến lợi ích của mình, «không thiết gì đến chiên» (10,13), «nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy», chấp nhận để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với những mục tử dỏm này, đàn chiên có vẻ chỉ như những con vật có bổn phận cung cấp «sữa và thịt» để họ ăn uống thỏa thuê, cung cấp những phương tiện để họ sống xa hoa, giàu có.

Ngôn sứ Êdêkiel đã mô tả hạng mục tử này như sau: «Khốn cho các mục tử Ítraen, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đàn chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).

3. Hai loại mục tử trong các thời đại

Bất kỳ thời đại nào, trong mọi xã hội cũng như trong mọi tôn giáo, luôn luôn có hai loại mục tử nói trên. Các mục tử đích thực, biết yêu thương và hy sinh cho đàn chiên thì thời nào cũng có. Họ làm cho bộ mặt của xã hội và của các tôn giáo trở nên hấp dẫn, lôi cuốn, đáng kính đáng yêu hơn. Họ là hiện thân và là phản ảnh trung thực của Đức Giêsu −vị Mục tử Nhân lành− trong các thời đại, là con người nối dài của Ngài để cứu độ thế giới suốt dòng lịch sử.

Nơi họ quy tụ rất nhiều nhân đức, tinh thần hy sinh. Họ là tinh hoa của nhân cách con người, là kết tinh của tình yêu nhân loại. Một trong những đặc tính căn bản của họ là lúc nào cũng làm việc, và không bao giờ hết việc để làm, nhất là trong một thế giới đầy dẫy bất công và đau khổ như hiện nay. Tình yêu đồng loại thúc đẩy họ làm việc liên tục, vô vị lợi. Tất cả những ai đến với họ đều được tiếp đón ân cần và như nhau, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Giả như có sự phân biệt nào đó thì bao giờ sự ưu đãi cũng nghiêng về phía người nghèo, người đau khổ.

Nhưng song song với những mục tử đích thực ấy, luôn luôn có những mục tử dỏm, cũng mang danh mục tử, cũng được phong chức mục tử, nhưng không có tâm hồn mục tử chút nào. Đối với họ, mục tử chỉ là một nghề nghiệp để kiếm sống, để làm giàu, một nghề mặc nhiên được ưu đãi trong xã hội và trong tôn giáo, vừa được mọi người mặc nhiên nể nang kính trọng, vừa dễ kiếm tiền một cách khá nhàn nhã. Do chức năng phải giảng dạy, họ cũng rao giảng Tin Mừng, cũng khuyên bảo mọi người thực hiện những điều tốt lành đạo đức, nhưng bản thân họ thì… không thực hiện. Với những lời họ dạy bảo, Đức Giêsu khuyên: «Tất cả những gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng làm theo, vì họ nói mà không làm» (Mt 23,3). Một cách nào đấy, qua lối sống ích kỷ của họ, họ vô tình phá hoại và làm cho nhiều tâm hồn thất vọng về tôn giáo mà họ rao giảng.

Rất dễ nhận ra loại mục tử này qua một vài đặc tính sau đây:
đối xử phân biệt rõ ràng giữa giàu nghèo: ưu đãi và kính nể người giàu, đồng thời bạc đãi và coi khinh người nghèo;
sống xa hoa, giàu sang bất chấp chung quanh và kế cận mình có biết bao người túng thiếu, nghèo khổ;
bách hại những ai dám nói sự thật về con người mình; 
– ai nhờ việc gì cũng phải có tiền mới làm; những người nghèo khổ muốn nhờ họ cầu kinh, dâng lễ cũng phải trả tiền (như vậy, họ «đã được phần thưởng rồi!» [Mt 6,2b.5b.16b]);
vô cảm, tỏ ra vô trách nhiệm và hoàn toàn thụ động trước những đau khổ, bất công mà vô số người yếu thế bị ức hiếp chung quanh họ phải chịu;
− v.v... 
Một số người công giáo nhận xét: hiện nay, càng ngày càng có nhiều người tin Chúa nhưng không còn tin Giáo Hội, và có nhiều người đã từ bỏ Giáo Hội để theo những giáo phái khác. Nhận xét đó có thể đúng. Và nếu đúng thì mọi người công giáo –nhất là các vị mục tử trong Giáo Hội– đều nên xét lại chính mình. Rất có thể người công giáo đã không sống đúng những điều căn bản nhất của Tin Mừng là sống thành thật, công bằng và yêu thương. Và cũng rất có thể tỷ lệ giữa các mục tử đích thực và các mục tử dỏm không còn được như xưa: số các mục tử dỏm đã tăng lên rất nhiều. Thiết tưởng vì tương lai và sự phát triển của Giáo Hội, mọi người công giáo –đặc biệt các vị mục tửđều có trách nhiệm chấn chỉnh lại cách sống của mình, và phải điều chỉnh lại tỷ lệ ấy.

Do đó, nếu nói Giáo Hội thiếu mục tử thì không đúng lắm, vì nếu thiếu mục tử thì chắc hẳn mọi mục tử sẽ làm việc suốt ngày không xuể. Nhưng trước mắt mọi người thì rõ ràng có khá nhiều mục tử xem ra rất nhàn nhã, nếu có bận thì bận việc gì khác chứ không phải là việc phát triển tâm linh, hay việc cứu nhân độ thế. Có lẽ nói đúng hơn, là Giáo Hội đang bị thiếu các mục tử đích thực, những mục tử thật sự luôn quan tâm để đàn chiên «được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10)

Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội, không phải chỉ những mục tử, mà phải là những mục tử đích thực. 


Nguyễn Chính Kết

Bấm vào đây để trở về bài chia sẻ:



TN16 - Người mục tử tốt lành biết «chạnh lòng thương» và ra tay cứu giúp người đau khổ




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 16 Thường Niên

(22-7-2018)


Người mục tử tốt lành biết «chạnh lòng thương»
và ra tay cứu giúp người đau khổ



ĐỌC LỜI CHÚA

  Gr 23,1-6: (1) Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác. (2) Các ngươi đã xua đuổi và chẳng lưu tâm gì đến chúng. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi.

  Ep 2,13-18: (14) Người là bình an của chúng ta: Người đã hy sinh thân mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét; (15) Người đã hủy bỏ Luật cũ gồm các điều răn và giới luật.

  TIN MỪNG: Mc 6,30-34

Đức Giêsu chạnh lòng thương dân chúng

(30) Các Tông Đồ tụ họp chung quanh Đức Giêsu, và kể lại cho Người biết mọi việc các ông đã làm, và mọi điều các ông đã dạy. (31) Người bảo các ông: «Chính anh em hãy lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút». Quả thế, kẻ lui người tới quá đông, nên các ông cũng chẳng có thì giờ ăn uống nữa. (32) Vậy, thầy trò xuống thuyền đi lánh riêng ra một nơi hoang vắng. (33) Thấy các ngài ra đi, nhiều người hiểu ý, nên từ khắp các thành, họ cùng nhau theo đường bộ chạy đến nơi, trước cả các ngài. (34) Ra khỏi thuyền, Đức Giêsu thấy một đám người rất đông thì chạnh lòng thương, vì họ như bầy chiên không người chăn dắt. Và Người bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.





CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Cảm xúc của Đức Giêsu ra sao khi thấy dân chúng «như bầy chiên không người chăn dắt»? Cảm xúc ấy có dẫn Ngài đến hành động không? Nếu ta đứng trước cảnh dân chúng như thế thì cảm xúc và phản ứng của ta thế nào? Ta có hành động như Ngài không?  
2. Mục tử tốt và mục tử xấu khác nhau chỗ nào? Khác nhau ở lời nói hay ở hành động? Mục tử xấu có thể rao giảng thật hay, và tỏ ra thật hiền lành đạo mạo nhưng lại có thể sẵn sàng làm ngơ trước đau khổ của đồng loại không? Có thể căn cứ vào vẻ hiền lành đạo mạo để chắc chắn rằng đó là mục tử tốt không?  
3. Người mục tử tốt lành có thể không cảm xúc trước những đau khổ của đàn chiên, sẵn sàng im lặng trước những bất công ngay trước mắt mình, hoặc khoanh tay đứng nhìn bất động trước những bàn tay giơ lên cầu cứu mình không? 


Suy tư gợi ý:

1. Khả năng «chạnh lòng thương» và hy sinh cho dân chúng

Bài đọc 1 nói về những mục tử xấu và về lời Thiên Chúa hứa hẹn sẽ ban cho dân những mục tử tốt. Vì thế, qua bài Tin Mừng được ghép với bài đọc I, Giáo Hội muốn nói tới khả năng yêu thương của người mục tử, đặc biệt khả năng «chạnh lòng thương» (Mc 6,34) như Đức Giêsu trước những đau khổ của dân chúng, khả năng hy sinh để cứu khổ và đem lại hạnh phúc cho họ. 

Bài Tin Mừng cho thấy sự đói khát chân lý của dân chúng. Họ chẳng những nghèo về vật chất, mà còn nghèo về kiến thức, về khả năng suy nghĩ, về văn hóa, về tâm linh, vì không ai chỉ dẫn dạy bảo họ. Khi thấy Đức Giêsu giảng dạy «như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư» (Mt 7,29), họ theo Ngài rất đông. Sau khi rao giảng và dạy dỗ họ đã lâu, Đức Giêsu và các môn đệ cảm thấy mệt và cần nghỉ ngơi, nên phải «lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút» (Mc 6,31a). Nhưng dân chúng vẫn còn ham muốn được nghe Ngài dạy bảo, nên không để cho Ngài và các môn đệ nghỉ ngơi, mà lại tiếp tục bám sát các ngài đến nỗi các ngài «chẳng có thì giờ ăn uống nữa» (Mc 6,31b)

Trước tình cảnh này, đáng lẽ Đức Giêsu từ chối họ vì Ngài và các môn đệ cần phải nghỉ ngơi và cầu nguyện, đó là những nhu cầu hết sức chính đáng của các ngài. Nhưng Ngài không làm như vậy mà lại «bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều» (Mc 6,34c). Tại sao? Vì Ngài luôn luôn «chạnh lòng thương» trước nỗi cùng khốn của họ, «họ như bầy chiên không người chăn dắt» (Mc 6,34b). Tình thương bao la đã khiến Ngài trở nên rất nhạy cảm trước nhu cầu cũng như nỗi thống khổ của mọi người. Tình thương ấy đòi buộc Ngài phải làm cho họ một cái gì.


2. Mọi mục tử cần có khả năng «chạnh lòng thương»

Ước gì mọi mục tử – là những người muốn noi gương Đức Giêsu một cách đặc biệt và triệt để hơn những Kitô hữu bình thường khác – cũng có khả năng «chạnh lòng thương» trước những nỗi cùng khốn của những «con chiên» mình chăn dắt. «Chạnh lòng thương» để sẵn sàng hy sinh cho họ: chẳng hạn hy sinh giấc nghỉ trưa, giờ đọc kinh nguyện, thậm chí cả giờ nghỉ đêm… khi họ cần mình giúp đỡ. 

Tôi có quen và rất cảm phục một linh mục nọ: khi có một bệnh nhân ở một bệnh viện nào kêu ngài đến xức dầu hoặc giải tội, ngay cả vào ban đêm hay khi trời mưa, thì ngài đều sẵn sàng lên đường đến với họ. Họ không biết kêu ai ngoài ngài trong những trường hợp đặc biệt ấy, vì hầu hết các linh mục khác gần bệnh viện đều từ chối. Thế rồi người này nói với ngài kia về sự sẵn sàng của ngài, nên về sau người ta chỉ còn biết đến với Ngài, dù họ ở những bệnh viện khá xa. Điều khiến tôi phục ngài sát đất là khả năng «chạnh lòng thương» của Ngài qua nhiều năm tháng vẫn không suy giảm, khiến ngài luôn luôn sẵn sàng đến với những ai đau khổ, dù sức khỏe ngài không được tốt lắm. Và nhất là vì ngài luôn luôn rất bận: ngài là cha phó một xứ lớn, và cũng là một nhà nghiên cứu, viết lách, đồng thời còn bận làm một số công tác trong giáo phận. Tôi hằng cầu nguyện cho Giáo Hội Việt Nam có được nhiều linh mục như ngài!


3. Đời biết bao cảnh khổ đau khiến ta «chạnh lòng thương»

Đức Phật nói: «Đời là bể khổ». Quả thật, đời người có biết bao nỗi khổ, nhất là trong những đất nước theo những thể chế phi nhân, độc tài: dân chúng nghèo nàn, lầm than, khổ sở trong một xã hội đầy dẫy áp bức, bất công. Trong những xã hội như thế, người mục tử – vốn là hiện thân của Đức Giêsu – cần phải có khả năng «chạnh lòng thương» hơn bất kỳ ở đâu khác. Trong xã hội Do-thái xưa, Đức Giêsu đi tới đâu mà gặp những người đau khổ cần cứu giúp thì Ngài luôn luôn ra tay, không bao giờ từ chối: «Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó» (Cv 10,38)

Hiện nay, Ngài không còn ở trần gian để «thi ân giáng phúc» như thế nữa, nhưng Ngài đã lập nên một đội ngũ mục tử –gồm những người tình nguyện tiếp nối sứ mạng «mục tử» của Ngài– để thay Ngài và nhân danh Ngài «thi ân giáng phúc» cho tất cả những ai đau khổ. Nhờ vậy, Ngài vẫn có thể rao giảng chân lý, nói những lời an ủi mọi người qua miệng các mục tử ấy. Ngài vẫn có thể lắng nghe mọi người bằng đôi tai của các mục tử. Ngài vẫn yêu thương bằng con tim của họ. Ngài vẫn phục vụ bằng đôi tay họ. Ngài vẫn đến với mọi người bằng đôi chân của họ. Ngài làm tất cả những điều tốt đẹp cho mọi người bằng bản thân của họ. 

Các mục tử chính là hiện thân của Ngài giữa lòng thế giới đầy đau khổ này. Nếu mọi mục tử của Ngài đều thật sự sống đúng điều họ đã cam kết khi dấn thân làm mục tử thì dân chúng sẽ bớt được biết bao đau khổ!


4. Những «mục tử ghẻ»

Nhưng than ôi, nếu thời nào cũng có những «con chiên ghẻ» thì thời nào cũng có những «mục tử ghẻ» như ngôn sứ Giêrêmia mô tả trong bài đọc I. Những «mục tử ghẻ» là những mục tử có trái tim bằng đá chứ không phải bằng thịt (x. Ed 36,26), không có khả năng «chạnh lòng thương» như Đức Giêsu. 

Vì thế, họ sẵn sàng làm ngơ và lạnh lùng quay mặt đi trước những bất hạnh cùng cực của người khác, trước những cánh tay đưa lên van xin họ cứu giúp một cách tuyệt vọng. Họ có thể điềm nhiên nhìn những cảnh bất công xảy ra nhan nhản trước mắt cho chiên của mình mà trong lòng không cảm thấy mình phải làm một cái gì, hay phải nói lên một lời nào để cải thiện những cảnh ấy. Họ sợ bị phiền hà đến bản thân nên sẵn sàng tỏ ra vô trách nhiệm trước mọi cảnh áp bức xảy đến với chiên của mình. Họ được Đức Giêsu mô tả như những kẻ chăn chiên thuê: «Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (Ga 10,12)

Tệ hơn nữa, nhiều «mục tử ghẻ» lại còn vì quyền lợi của mình mà sẵn sàng ngấm ngầm đứng về phe kẻ ác, bênh vực kẻ gây bất công. Những mục tử này có thể là thầy dạy về đức tin, về tình thương. Họ tuyên xưng đức tin ngoài miệng rất mạnh mẽ, lên án gắt gao những ai chỉ tuyên xưng khác với mình một chút. Nhưng khi gặp những tình huống cần phải chứng tỏ đức tin thực tế của mình, người ta mới thấy đức tin ấy chỉ là thứ «đức tin chết» (Gc 2,26; x. 2,17), hay đức tin ngoài vỏ, rỗng ruột. Những bài giảng về tình thương của họ nghe rất tuyệt vời, nhưng khi cần phải chứng tỏ bằng thực tế chính tình thương của mình, người ta mới thấy tình thương của họ chỉ là tình thương ngoài miệng lưỡi. 

Trong một xã hội phi nhân và bất công, «đàn chiên» của những «mục tử ghẻ» ấy nhiều khi phải mang hai lần ách: ách đời thường vốn đã nặng lại còn phải gánh thêm ách đạo nặng không kém, vì thế họ trở nên bất hạnh gấp đôi những kẻ bất hạnh khác. Trái lại, một mục tử tốt lành luôn luôn làm cho mọi người đến với mình cảm thấy được trút bớt gánh nặng, hoặc cảm thấy mạnh sức hơn để có thể nhấc bổng gánh nặng của mình. 

Kitô giáo đúng nghĩa phải đem lại giải phóng chứ không hề chất thêm gánh nặng cho con người. Mọi mục tử phải nói được như Đức Giêsu: «Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ bồi dưỡng cho» (Mt 11,28).


5. Số phận của những mục tử

Nếu những mục tử tốt lành sẽ được Thiên Chúa chúc phúc và ân thưởng, thì những mục tử xấu sẽ bị Thiên Chúa ra án phạt nghiêm khắc. Trong bài đọc I, ngôn sứ Giêrêmia nói về số phận các mục tử xấu ấy: «Khốn thay những mục tử làm cho đoàn chiên Ta chăn dắt phải thất lạc và tan tác. Này Ta sẽ để ý đến các hành vi gian ác của các ngươi mà trừng phạt các ngươi» (Gr 23,1-2). Ngôn sứ Dacaria cũng viết: «Ta sẽ bừng bừng nổi giận đánh phạt các mục tử» (Dc 10,3); «Hãy nghe tiếng rú của các mục tử, vì vẻ huy hoàng của chúng đã tiêu tan» (11,3).

Những mục tử xấu đáng trừng phạt. Vì thế, nếu không có khả năng «chạnh lòng thương» trước những đau khổ của con người, tốt hơn không nên làm mục tử. Đã nhận sứ mạng làm mục tử thì phải biết yêu thương đàn chiên. Những mục tử không thương đàn chiên, bỏ mặc chiên cho sói ăn thịt, hoặc còn hùa theo những kẻ gian ác để hại đàn chiên thì có thể được ưu đãi, trọng vọng, được sung sướng, được hưởng nhiều ân huệ và đặc quyền đặc lợi mà những kẻ bóc lột đàn áp chiên dành cho. Nhưng rốt cuộc cuộc đời họ sẽ kết thúc trong đau khổ, họ sẽ mang tiếng xấu muôn đời. Những vết nhơ, những vết đen trong lịch sử cuộc đời họ làm sao có thể rửa sạch được? Danh thơm tồn tại mãi, mà tiếng xấu cũng không bao giờ phai. Người đời vẫn thường nói: «Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ».



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, trong xã hội và thế giới hiện nay có rất nhiều mục tử, nhiều nơi thậm chí dư thừa, nhưng mục tử tốt biết «chạnh lòng thương» và biết hy sinh cho đàn chiên thì vẫn luôn luôn thiếu. Dân chúng đau khổ không cần những mục tử vô tâm, họ chỉ cần và rất cần những mục tử biết «chạnh lòng thương». Xin Cha hãy ban cho chúng con những mục tử tốt ấy như Cha đã hứa qua miệng ngôn sứ Giêrêmia (Gr 23,4). Amen.

Nguyễn Chính Kết