Hai
loại mục tử
trong các thời đại
trong các thời đại
Chữ «mục tử», từ nguyên thủy, xuất phát từ Thánh Kinh Cựu Ước để chỉ những người lãnh đạo trong tôn giáo cũng như trong xã hội. Nhưng người Kitô hữu thường dùng từ này để chỉ những người lãnh đạo tôn giáo. Tuy nhiên, trong bài này, chữ «mục tử» cần được hiểu theo nghĩa chung chung, là người lãnh đạo trong bất cứ tập thể nào: gia đình, xã hội, tôn giáo, đất nước, v.v...
1. Đức Giêsu nói về hai loại mục tử
Trong Tin Mừng Gioan, không phải vô tình hay vô ý mà tác giả Tin Mừng này lại đặt liên tiếp hai đoạn Tin Mừng sau đây kế tiếp nhau:
● Đoạn 9 (Ga 9,1-41) nói về việc Đức Giêsu chữa một người mù từ lúc mới sinh vào ngày sabát, và người mù này đã bị những người Pharisêu thời ấy bắt bẻ, hạch hỏi đủ điều chỉ vì được Đức Giêsu chữa khỏi mù trong ngày sabát. Đối với họ, chữa bệnh trong ngày sabát là lỗi một luật tôn giáo rất nghiêm trọng, có thể bị tử hình, như một số sách Cựu Ước đã xác định (x. Xh 31,14,15; 35,2-3; Ds 15,32-36).
● Đoạn 10 (Ga 10,1-29), trong đó, Đức Giêsu cho thấy sự khác biệt giữa hai loại mục tử: mục tử thật hay mục tử nhân lành, và mục tử giả hay mục tử chăn thuê mà nhiều lần Ngài muốn ám chỉ một số lãnh đạo tôn giáo thời ấy.
● Đoạn 9 (Ga 9,1-41) nói về việc Đức Giêsu chữa một người mù từ lúc mới sinh vào ngày sabát, và người mù này đã bị những người Pharisêu thời ấy bắt bẻ, hạch hỏi đủ điều chỉ vì được Đức Giêsu chữa khỏi mù trong ngày sabát. Đối với họ, chữa bệnh trong ngày sabát là lỗi một luật tôn giáo rất nghiêm trọng, có thể bị tử hình, như một số sách Cựu Ước đã xác định (x. Xh 31,14,15; 35,2-3; Ds 15,32-36).
● Đoạn 10 (Ga 10,1-29), trong đó, Đức Giêsu cho thấy sự khác biệt giữa hai loại mục tử: mục tử thật hay mục tử nhân lành, và mục tử giả hay mục tử chăn thuê mà nhiều lần Ngài muốn ám chỉ một số lãnh đạo tôn giáo thời ấy.
Đoạn Tin Mừng về người mù được chữa lành mô tả những mục tử dỏm –hay những
người Pharisêu– là những người chỉ quan tâm đến những luật lệ của tôn
giáo chứ không đếm xỉa gì đến những nhu cầu cấp thiết của con người. Họ chỉ muốn dạy và buộc dân chúng thi hành những luật
lệ tôn giáo, chứ không màng gì đến những nhu cầu thực tế cần được cứu giúp của dân
chúng. Còn Đức Giêsu –người mục tử đích thực– thì hành động ngược lại. Đối với Ngài,
«ngày sabát», cũng như lề luật và tôn
giáo, «được tạo nên cho con người, chứ không
phải con người cho ngày sabát», hay cho lề luật và tôn giáo (Mc 2,27). Đối với Ngài, tất cả mọi luật lệ phải nhằm mục đích thể hiện tình yêu đối với Thiên Chúa được cụ thể hóa thành tình yêu đối với đồng loại (tương tự như chủ trương của thánh Phanxicô Salê trong «Kinh Hòa Bình»: «Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người», «trong mọi người» chứ không phải chỉ trong nhà thờ, trong những lúc cầu nguyện, dâng lễ, v.v... «Mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người» mới chính là cách mà Ngài hài lòng nhất).
Những người Pharisêu muốn thần thánh hóa lề luật và tôn giáo hơn cả con người,
đang khi chính con người –vốn «được tạo dựng
theo hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,27; 9,6) và «giống như Thiên Chúa» (St 1,26)– đáng lẽ phải được coi là linh thánh
hơn cả lề luật và tôn giáo. Thật vậy, đành rằng tôn giáo và lề luật đều là linh thánh, nhưng chỉ là những phương tiện phục vụ con người, giúp đưa con người về với Thiên Chúa, chúng «được tạo nên cho con người» chứ không ngược lại (Mc 2,27). Do đó, con người mới chính là mục đích của tôn giáo và
lề luật.
Thật vậy, ngược với chủ trương của người Pharisêu, Đức Giêsu nói với họ: «Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế» (Mt 9,13). «Lòng nhân» tức tình thương giữa con người với nhau được Ngài coi trọng hơn «lễ tế» là thực thể tượng trưng cho tôn giáo và lề luật. Chỗ khác, Ngài coi chuyện làm hòa với anh em mình, tức cách cư xử giữa con người với nhau, còn quan trọng hơn cả việc dâng của lễ trong đền thờ (x. Mt 5,23-24).
Thật vậy, ngược với chủ trương của người Pharisêu, Đức Giêsu nói với họ: «Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế» (Mt 9,13). «Lòng nhân» tức tình thương giữa con người với nhau được Ngài coi trọng hơn «lễ tế» là thực thể tượng trưng cho tôn giáo và lề luật. Chỗ khác, Ngài coi chuyện làm hòa với anh em mình, tức cách cư xử giữa con người với nhau, còn quan trọng hơn cả việc dâng của lễ trong đền thờ (x. Mt 5,23-24).
Trái lại, người Pharisêu coi chuyện «nộp thuế
thập phân về bạc hà, thì là, rau húng» cho đền thờ là điều rất quan trọng, nhưng
lại chủ trương «bỏ những điều quan trọng nhất
trong Lề Luật là công lý, tình thương và lòng thành thật» (Mt 23,23). Họ coi
vàng trong đền thờ còn trọng hơn cả chính đền thờ (x. 23,16-17), coi lễ vật trên
bàn thờ còn trọng hơn cả bàn thờ (x. 23,18-19). Sở dĩ họ phải coi lề luật,
lễ tế, các nghi thức bề ngoài và những chuyện phụ thuộc ấy là quan trọng (x. Mt 23,16-22), đồng thời
dạy mọi người phải quan niệm như vậy… là vì có làm thế, vai trò của họ mới được coi trọng,
được đề cao, và mọi người mới chịu dâng cúng vào đền thờ cho nhiều, nhờ đó họ mới
có được những lợi lộc cụ thể.
Nếu quan trọng hóa theo chiều ngược lại như chủ trương của Đức Giêsu, là quan trọng hóa con người, coi thái độ tâm linh bên trong là cốt yếu của tôn giáo, nhấn mạnh đến «công lý, tình thương và lòng thành thật» (Mt 23,23) như cốt tủy của lề luật, coi đền thờ trong tâm hồn (x. 1Cr 3,16-17; 6,19) quan trọng hơn đền thờ bằng gạch đá (x. Cv 7,47-48; 17,24-25), coi thái độ hay tâm tình bên trong quan trọng hơn những nghi thức bên ngoài (x. Mt 7,18-23; 15,8-11; 23,25-26.28; Lc 11,38-39), thì rõ ràng họ không có lợi. Dạy dân chúng quan niệm sai lầm như thế là một thủ thuật để họ được lợi. Nên Đức Giêsu gọi họ là «những kẻ dẫn đường mù quáng» (Mt 23,16), là «những người mù dắt người mù» (Mt 15,14).
Nếu quan trọng hóa theo chiều ngược lại như chủ trương của Đức Giêsu, là quan trọng hóa con người, coi thái độ tâm linh bên trong là cốt yếu của tôn giáo, nhấn mạnh đến «công lý, tình thương và lòng thành thật» (Mt 23,23) như cốt tủy của lề luật, coi đền thờ trong tâm hồn (x. 1Cr 3,16-17; 6,19) quan trọng hơn đền thờ bằng gạch đá (x. Cv 7,47-48; 17,24-25), coi thái độ hay tâm tình bên trong quan trọng hơn những nghi thức bên ngoài (x. Mt 7,18-23; 15,8-11; 23,25-26.28; Lc 11,38-39), thì rõ ràng họ không có lợi. Dạy dân chúng quan niệm sai lầm như thế là một thủ thuật để họ được lợi. Nên Đức Giêsu gọi họ là «những kẻ dẫn đường mù quáng» (Mt 23,16), là «những người mù dắt người mù» (Mt 15,14).
Tuy nhiên, điều khiến cho họ bị kết án không phải là chuyện họ mù, nhưng là chuyện họ không nhận mình là mù, là sai, mà cứ ngoan cố cho mình là đúng, là sáng, lại còn buộc mọi người phải tung hô mình là đúng, là sáng nữa: «Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn!» (Ga 9,41).
2. Đức Giêsu mô tả chân dung hai loại mục tử
Qua bài Tin Mừng về hai loại mục tử (Ga 10,1-21), Đức Giêsu cho ta thấy điều cốt
yếu khiến người mục tử đích thực khác với những người mục tử dỏm −được cụ thể hóa trong đoạn Tin
Mừng trước (Ga 9,1-41) về những người Pharisêu phản đối việc Đức Giêsu chữa người mù từ thuở
mới sinh− ở những điểm sau:
● Người mục tử đích thực thì thật sự yêu thương đàn chiên, luôn luôn nghĩ đến sự sống, lợi ích hay hạnh phúc của đàn chiên, thậm chí quên cả lợi ích hay sự tồn tại của mình, sẵn sàng sống chết vì đàn chiên: «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11). Mối bận tâm lớn nhất của người mục tử đích thực là làm sao để «chiên được sống và sống dồi dào» (10,10): dồi dào về tâm linh, và nếu có thể được thì cả vật chất nữa. Vì đối với người mục tử đích thực, đàn chiên không phải là những con vật mà là con người, là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,27; 9,6), Đấng mà họ phải tôn thờ và hết lòng yêu mến. Sự thánh thiện của người mục tử đích thực hệ tại tình yêu thương mà họ dành cho đàn chiên.
● Người mục tử đích thực thì thật sự yêu thương đàn chiên, luôn luôn nghĩ đến sự sống, lợi ích hay hạnh phúc của đàn chiên, thậm chí quên cả lợi ích hay sự tồn tại của mình, sẵn sàng sống chết vì đàn chiên: «Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên» (Ga 10,11). Mối bận tâm lớn nhất của người mục tử đích thực là làm sao để «chiên được sống và sống dồi dào» (10,10): dồi dào về tâm linh, và nếu có thể được thì cả vật chất nữa. Vì đối với người mục tử đích thực, đàn chiên không phải là những con vật mà là con người, là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,27; 9,6), Đấng mà họ phải tôn thờ và hết lòng yêu mến. Sự thánh thiện của người mục tử đích thực hệ tại tình yêu thương mà họ dành cho đàn chiên.
● Còn người mục tử dỏm hay kẻ chăn thuê thì không nghĩ gì đến nhu cầu cũng như nỗi đau khổ của những «con chiên» bất hạnh, chẳng hạn cụ thể như người mù từ lúc mới sinh trong đoạn Ga 9,1-45: chẳng những
họ không thương người mù bất hạnh kia, mà còn dùng luật lệ tôn giáo để trách cứ Đức Giêsu vì đã chữa lành cho người mù ấy.
Trong đoạn Tin Mừng Ga 10,1-21, Đức Giêsu đã mô tả họ như người chỉ nghĩ đến lợi ích của mình, «không thiết gì đến chiên» (10,13), «nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy», chấp nhận để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với những mục tử dỏm này, đàn chiên có vẻ chỉ như những con vật có bổn phận cung cấp «sữa và thịt» để họ ăn uống thỏa thuê, cung cấp những phương tiện để họ sống xa hoa, giàu có.
Trong đoạn Tin Mừng Ga 10,1-21, Đức Giêsu đã mô tả họ như người chỉ nghĩ đến lợi ích của mình, «không thiết gì đến chiên» (10,13), «nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy», chấp nhận để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với những mục tử dỏm này, đàn chiên có vẻ chỉ như những con vật có bổn phận cung cấp «sữa và thịt» để họ ăn uống thỏa thuê, cung cấp những phương tiện để họ sống xa hoa, giàu có.
Ngôn sứ Êdêkiel đã mô tả hạng mục tử này như sau: «Khốn cho các mục tử Ítraen, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì
các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đàn
chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên
bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó;
chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm.
Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).
3.
Hai loại mục tử trong các thời đại
Bất kỳ thời đại nào, trong mọi xã hội cũng như trong mọi tôn giáo, luôn luôn
có hai loại mục tử nói trên. Các mục tử đích thực, biết yêu thương và hy sinh cho
đàn chiên thì thời nào cũng có. Họ làm cho bộ mặt của xã hội và của các tôn giáo
trở nên hấp dẫn, lôi cuốn, đáng kính đáng yêu hơn. Họ là hiện thân và là phản ảnh
trung thực của Đức Giêsu −vị Mục tử Nhân lành− trong các thời đại, là con người
nối dài của Ngài để cứu độ thế giới suốt dòng lịch sử.
Nơi họ quy tụ rất nhiều nhân đức, tinh thần hy sinh. Họ là tinh hoa của nhân
cách con người, là kết tinh của tình yêu nhân loại. Một trong những đặc tính căn
bản của họ là lúc nào cũng làm việc, và không bao giờ hết việc để làm, nhất là trong
một thế giới đầy dẫy bất công và đau khổ như hiện nay. Tình yêu đồng loại thúc đẩy họ làm việc
liên tục, vô vị lợi. Tất cả những ai đến với họ đều được tiếp đón ân cần và như
nhau, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn. Giả như có sự phân biệt nào đó thì bao
giờ sự ưu đãi cũng nghiêng về phía người nghèo, người đau khổ.
Nhưng song song với những mục tử đích thực ấy, luôn luôn có những mục tử
dỏm, cũng mang danh mục tử, cũng được phong chức mục tử, nhưng không có tâm hồn
mục tử chút nào. Đối với họ, mục tử chỉ là một nghề nghiệp để kiếm sống, để làm giàu, một nghề mặc nhiên được ưu đãi trong xã hội và trong tôn giáo, vừa được mọi người mặc nhiên nể nang
kính trọng, vừa dễ kiếm tiền một cách khá nhàn nhã. Do chức năng phải giảng dạy,
họ cũng rao giảng Tin Mừng, cũng khuyên bảo mọi người thực hiện những điều tốt lành
đạo đức, nhưng bản thân họ thì… không thực hiện. Với những lời họ dạy bảo, Đức Giêsu khuyên: «Tất cả những
gì họ nói, anh em hãy làm, hãy giữ, còn những việc họ làm, thì đừng làm theo, vì
họ nói mà không làm» (Mt 23,3). Một cách nào đấy, qua lối sống ích kỷ của họ, họ vô tình phá hoại và làm
cho nhiều tâm hồn thất vọng về tôn giáo mà họ rao giảng.
Rất dễ nhận ra loại mục tử này qua một vài đặc tính sau đây:
– đối xử phân biệt rõ ràng giữa giàu nghèo: ưu đãi và kính nể người giàu, đồng thời bạc đãi và coi khinh người nghèo;
– sống xa hoa, giàu sang bất chấp chung quanh và kế cận mình có biết bao người túng thiếu, nghèo khổ;
– bách hại những ai dám nói sự thật về con người mình;
– ai nhờ việc gì cũng phải có tiền mới làm; những người nghèo khổ muốn nhờ họ cầu kinh, dâng lễ cũng phải trả tiền (như vậy, họ «đã được phần thưởng rồi!» [Mt 6,2b.5b.16b]);
− vô cảm, tỏ ra vô trách nhiệm và hoàn toàn thụ động trước những đau khổ, bất công mà vô số người yếu thế bị ức hiếp chung quanh họ phải chịu;
− v.v...
Một số người công giáo nhận xét: hiện nay, càng ngày càng có nhiều người
tin Chúa nhưng không còn tin Giáo Hội, và có nhiều người đã từ bỏ Giáo Hội để theo
những giáo phái khác. Nhận xét đó có thể đúng. Và nếu đúng thì mọi người công giáo
–nhất là các vị mục tử trong Giáo Hội– đều nên xét lại chính mình. Rất có thể người
công giáo đã không sống đúng những điều căn bản nhất của Tin Mừng là sống thành thật, công bằng
và yêu thương. Và cũng rất có thể tỷ lệ giữa các mục tử đích thực và các mục tử
dỏm không còn được như xưa: số các mục tử dỏm đã tăng lên rất nhiều. Thiết tưởng
vì tương lai và sự phát triển của Giáo Hội, mọi người công giáo –đặc biệt các vị
mục tử– đều có trách nhiệm chấn chỉnh lại cách sống của mình, và phải điều
chỉnh lại tỷ lệ ấy.
Do đó, nếu nói Giáo Hội thiếu mục tử thì không đúng lắm, vì nếu thiếu mục
tử thì chắc hẳn mọi mục tử sẽ làm việc suốt ngày không xuể. Nhưng trước mắt mọi
người thì rõ ràng có khá nhiều mục tử xem ra rất nhàn nhã, nếu có bận thì bận việc
gì khác chứ không phải là việc phát triển tâm linh, hay việc cứu nhân độ thế. Có lẽ nói đúng hơn, là Giáo Hội đang bị thiếu các mục tử
đích thực, những mục tử thật sự luôn quan tâm để đàn chiên «được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10).
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội, không phải chỉ những mục tử, mà phải là những mục tử đích thực.
Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho Giáo Hội, không phải chỉ những mục tử, mà phải là những mục tử đích thực.
Nguyễn Chính Kết
Bấm vào đây để trở về bài chia sẻ:
.
No comments:
Post a Comment