Nhờ đâu Đức Giêsu có khả năng
cứu giúp người khác lạ lùng như thế?
1. Tại sao người ta theo Đức Giêsu đông như thế?
Nhân loại thời nào cũng chìm đắm trong đau khổ. Con người có đủ mọi thứ khổ: giàu cũng khổ, nghèo cũng khổ; có địa vị cũng khổ, không có địa vị cũng khổ; có con cũng khổ, không có con cũng khổ; bệnh thì khổ đã đành, mà không bệnh cũng vẫn thấy khổ… Vì thế, biết ai có thể giúp mình thoát khổ thì mình sẽ chạy đến người ấy. Vì thế, sở dĩ rất nhiều người đi theo Đức Giêsu xin Ngài cứu giúp vì Ngài luôn luôn có lòng cứu giúp những ai đau khổ, đồng thời Ngài cũng có quyền năng giúp họ thoát khổ [*].
[*] Đức Giêsu đã cứu chữa rất nhiều người bệnh tật đến với Ngài, sự việc này được các tác giả Tin Mừng kể ra một số trường hợp cụ thể như:
− Ga 4,46-54 => chữa đứa con sắp chết của một sĩ quan cận vệ của nhà vua
− Ga 5,1-9 => chữa một người đau ốm ở hồ nước tại Bétthêđa
− Mt 8,2-4 => chữa một người cùi (x. Mc 1,40-45; Lc 5,12-15)
− Mt 9,2-8 => chữa người bại liệt (x. Mc 2,3-12; Lc 5,17-26)
− Mt 12,9-14 => chữa người bị bại tay (x. Mc 3,1-6; Lc 6,6-11)
− Ga 9,1-7 => chữa một người mù từ thuở mới sinh
− Mc 8,22-26 => chữa người mù ở Bétxaiđa
− Mt 9,27-31 => chữa hai người mù
● và rất nhiều trường hợp khác:
− Cho kẻ chết sống lại: Mt 9,18-26 (//Mc 5,22-43; Lc 8,41-56); Lc 7,11-15; Ga 11,1-44
− Chữa người bị quỷ ám: Mc 1,21-28; Mt 12,22; Mt 8,28-34; Mt 9,32-34; Mt 15,21-28; Mt 17,14-21
− v.v...
Nhưng làm sao để có khả năng cứu giúp ấy? Nhờ đâu mà Đức Giêsu có khả năng ấy?
3. Nhờ đâu mà Đức Giêsu có khả năng cứu giúp người khác?
[**] Khi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể thành con người Đức Giêsu,
● Ngài cũng giống chúng ta hầu như mọi phương diện:
− cũng lo sợ hồi hộp đến đổ mồ hôi máu và các thiên thần phải đến an ủi, khích lệ trước khi Ngài bị bắt để chịu tra tấn và bị giết (x. Lc 22,43-44).
− cũng cảm thấy tâm hồn buồn rầu, bị chao đảo: «Người bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. Bấy giờ Người nói với các ông: "Tâm hồn Thầy buồn đến chết được"» (Mt 26,37-38).
− Ngài sợ đến nỗi phải xin Chúa Cha tha cho khỏi chết: «Cha ơi, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này». Dẫu sợ nhưng vẫn sẵn sàng vâng ý Chúa Cha: «Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha» (Lc 22,42).
− Ngài cũng dạt dào tình cảm, cũng thổn thức, xao xuyến và khóc khi đứng trước mộ Ladarô: «Thấy cô Maria khóc, và những người Dothái đi với cô cũng khóc, Ðức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. (...) Ðức Giêsu liền khóc. Người Dothái mới nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”»
− Thầy đám đông lầm than vất vưởng, Ngài cũng mủi lòng: «Thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt» (Mt 9,36) .
● Ngoại trừ tội lỗi ra, Ngài giống như tất cả chúng ta về mọi phương diện, kể cả việc chịu ma quỉ cám dỗ và cũng phải chống trả cám dỗ (x. Mt 4,1-11). Thánh Phaolô đã xác nhận điều đó nhiều lần, chẳng hạn như:
− Ngài «mang thân phận yếu hèn» (2Cr 13,4; x. 1Tm 3,16).
– «Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện» (Dt 2,17).
– «Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội» (Dt 4,15)
● Ngài trở nên hoàn hảo, có được những ưu điểm hơn người, cũng nhờ Ngài phải cố gắng, phải chiến đấu, phải trải qua biết bao đau khổ, nghĩa là cũng phải «trầy da tróc vẩy» mới được như thế, chứ không phải tự nhiên Ngài đã được như vậy đâu. Thánh Phaolô xác nhận:
− «Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục» (Dt 5,8).
− «Thiên Chúa (…) đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ» (Dt 2,10 ).
● Bản thân tôi, người viết bài này, cảm thấy Đức Giêsu như các sách Tân Ước diễn tả, rất gần gũi với tôi, dễ làm tôi yêu thương và được an ủi hơn một Đức Giêsu vốn đã hoàn hảo ngay từ khi sinh ra, chẳng cần phải luyện tập gì cả. Như vậy thì Ngài mới làm gương cho tôi được, nếu Ngài hoàn hảo ngay từ đầu, làm sao tôi bắt chước?Trong rất nhiều lần chữa bệnh cho người khác, Đức Giêsu nói với những người được Ngài cứu giúp: «Lòng tin của con đã cứu chữa con» (Mt 9,22; Mc 5,34; Lc 17,19), «Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi» (Mc 5,37; Lc 8,50).
Muốn tin mãnh liệt và thật sự vào một người nào, ta phải thử nghiệm tính đáng tin của người ấy. Nếu không, ta chỉ là một kẻ cả tin và rất dễ bị lừa dối. Giả như ta là giám đốc một công ty, khi muốn nhận một ai làm quản lý tiền bạc cho mình, hay khi muốn làm ăn lớn với một người khác, ta phải làm gì? Ta cần thử nghiệm tính đáng tin của người đó. Sau khi thử nghiệm cách thật khéo léo, sáng suốt, ta mới dám tin người ấy. Chẳng hạn, ta thử tạo cho người ấy những cơ hội để họ có thể gian lận hay ăn trộm của mình. Ban đầu thử họ bằng một món tiền nhỏ, rồi đến những món tiền lớn hơn, rồi đến những món tiền thật lớn, nếu người ấy vẫn không hề tỏ ra một dấu hiệu muốn gian lận, thì ta mới dám nhận họ làm việc hay làm ăn với mình. Và trong quá trình làm việc hay làm ăn với họ, nếu họ vẫn tỏ ra ngay thẳng, chân thật, thì ta mới giao cho người ấy những công việc quan trọng hơn, hay làm ăn lớn hơn với người ấy.
Nếu chúng ta không có một chứng nghiệm nào về sự chính xác, chân thực của những lời Đức Giêsu nói, thì đức tin của ta chỉ là một đức tin thuần lý, không được thể hiện thành những hành động thực tế của đời sống. Khi cần phải tin tưởng và phó thác cho tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, chẳng hạn khi lương tâm đòi buộc ta phải chấp nhận hiểm nguy như tình yêu đòi hỏi, ta không dám. Đức tin thuần lý của ta không thể biến thành những hành động thực tế quả cảm trong đời sống được. Đức tin thuần lý không được chứng tỏ bằng hành động chỉ là «đức tin chết» (x. Gc 2,17.26).
Nguyễn Chính Kết
(Bấm vào đây để trở về bài Chia sẻ Tin Mừng)
No comments:
Post a Comment