(tử đạo dưới thời cộng sản Hồ Chí Minh)
Thằng
khùng trong trại tù cải tạo
Phùng Quán
Mặc dầu là một Phật tử, xin
mời các hiền huynh và quý bạn đọc bài viết nói về Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn
Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam
can trường, hậu thế kính tôn và ghi ân ngài. (Xin xem tiểu sử của ngài phần dưới câu chuyện này)
(Tác giả viết lại theo lời kể của
nhà văn Nguyễn Tuân)
"… Anh ta vào trại
trước mình khá lâu, bị trừng phạt vì tội gì, mình không rõ. Người thì bảo anh
ta phạm tội hình sự, người lại bảo mắc tội chính trị. Nhưng cả hai tội mình đều
thấy khó tin. Anh ta không có dáng dấp của kẻ cướp bóc, sát nhân, và cũng không
có phong độ của người làm chính trị. Bộ dạng anh ta ngu ngơ, dở dại dở khùng. Mình
có cảm giác anh ta là một khúc củi rều, do một trận lũ cuốn từ một xó rừng nào
về, trôi ngang qua trại, bị vướng vào hàng rào của trại rồi mắc kẹt luôn ở đó. Nhìn
anh ta, rất khó đoán tuổi, có thể ba mươi, mà cũng có thể năm mươi. Gương mặt
anh ta gầy choắt, rúm ró, tàn tạ, như một cái bị cói rách, lăn lóc ở các đống
rác. Người anh ta cao lòng khòng, tay chân thẳng đuồn đuỗn, đen cháy, chỉ toàn
da, gân với xương.
Trên người, tứ thời một mớ
giẻ rách thay cho quần áo. Lúc đầu mình cứ tưởng anh ta bị câm vì suốt ngày ít
khi thấy anh ta mở miệng dù là chỉ để nhếch mép cười. Thật ra
anh ta chỉ là người quá ít lời. Gặp ai trong trại, cả cán bộ quản giáo lẫn phạm
nhân, anh ta đều cúi chào cung kính, nhưng không chuyện trò với bất cứ ai. Nhưng
không hiểu sao, ở con người anh ta có một cái gì đó làm mình đặc biệt chú ý, cứ
muốn làm quen… Nhiều lần mình định bắt chuyện, nhưng anh ta nhìn mình với ánh
mắt rất lạ, rồi lảng tránh sau khi đã cúi chào cung kính.
Hầu như tất cả các trại viên, kể cả những tay hung dữ nhất, cũng đều thương
anh ta. Những trại viên được gia đình tiếp tế người để dành cho anh ta viên kẹo,
miếng bánh, người cho điếu thuốc.
Ở trại, anh ta có một đặc quyền không ai tranh được, và cũng không ai muốn
tranh. Đó là khâm liệm tù chết. Mỗi lần có tù chết, giám thị trại đều cho gọi
"thằng khùng" (tên họ đặt cho anh ta) và giao cho việc khâm liệm. Với
bất cứ trại viên chết nào, kể cả những trại viên đã từng đánh đập anh ta, anh
ta đều khâm liệm chu đáo giống nhau. Anh ta nấu nước lá rừng, tắm rửa cho người
chết, kỳ cọ ghét trên cái cơ thể lạnh ngắt cứng queo, với hai bàn tay của người
mẹ tắm rửa cho đứa con nhỏ.
Lúc tắm rửa, kỳ cọ, miệng anh ta cứ mấp máy nói cái gì đó không ai nghe rõ.
Anh ta rút trong túi áo một mẩu lược gãy, chải tóc cho người chết, nếu người
chết có tóc. Anh ta chọn bộ áo quần lành lặn nhất của người tù, mặc vào rồi nhẹ
nhàng nâng xác đặt vào áo quan được đóng bằng gỗ tạp sơ sài
Anh ta cuộn những bộ áo quần khác thành cái gói vuông vắn, đặt làm gối cho
người chết. Nếu người tù không có áo xống gì, anh ta đẽo gọt một khúc cây làm
gối. Khi đã hoàn tất những việc trên, anh ta quỳ xuống bên áo quan, cúi hôn lên
trán người tù chết, và bật khóc.
Anh ta khóc đau đớn và thống thiết đến nỗi mọi người đều có cảm giác người
nằm trong áo quan là anh em máu mủ ruột thịt của anh ta. Với bất cứ người tù
nào anh ta cũng khóc như vậy. Một lần giám thị trại gọi anh ta lên:
- Thằng tù chết ấy là cái gì với mày mà mày khóc như cha chết vậy?
Anh ta chấp tay khúm núm thưa:
- Thưa cán bộ, tôi khóc vờ ấy mà. Người chết mà không có tiếng khóc tống
tiễn thì vong hồn cứ lẩn quẩn trong trại. Có thể nó tìm cách làm hại cán bộ. Lúc
hắn còn sống, cán bộ có thể trừng trị hắn, nhưng đây là vong hồn hắn, cán bộ
muốn xích cổ, cũng không xích được.
Thằng khùng nói có lý. Giám thị trại mặc, cho nó muốn khóc bao nhiêu thì
khóc. Nhưng mình không tin là anh ta khóc vờ. Lúc khóc, cả gương mặt vàng úa, nhăn
nhúm của anh ta chan hòa nước mắt. Cả thân hình gầy guộc của anh ta run rẩy. Mình
có cảm giác cả cái mớ giẻ rách khoác trên người anh ta cũng khóc…
Trong tiếng khóc và nước mắt của anh ta chan chứa một niềm thương xót khôn
tả. Nghe anh ta khóc, cả những trại viên khét tiếng lỳ lợm, chai sạn, "đầu
chày, đít thớt, mặt bù loong" cũng phải rơm rớm nước mắt. Chỉ có nỗi đau
đớn chân thật mới có khả năng xuyên thẳng vào trái tim người. Mình thường nghĩ
ngợi rất nhiều về anh ta. Con người này là ai vậy? Một thằng khùng hay người có
mối từ tâm lớn lao của bậc đại hiền?…
Thế rồi, một lần, mình và anh ta cùng đi lùa trâu xuống con sông gần trại
cho dầm nước. Trời nóng như dội lửa. Bãi sông đầy cát và sỏi bị nóng rang bỏng
như than đỏ. Trên bãi sông mọc độc một cây mủng già gốc sần sùi tán lá xác xơ
trải một mảng bóng râm bằng chiếc chiếu cá nhân xuống cát và sỏi. Người lính
gác ngồi trên bờ sông dốc đứng, ôm súng trú nắng dưới một lùm cây. Anh ta và
mình phải ngồi trú nắng dưới gốc cây mủng, canh đàn trâu ngụp lặn dưới sông. Vì
mảng bóng râm quá hẹp nên hai người gần sát lưng nhau. Anh ta bỗng lên tiếng
trước, hỏi mà đầu không quay lại:
- Anh Tuân này - không rõ anh ta biết tên mình lúc nào- sống ở đây anh thèm
cái gì nhất?
- Thèm được đọc sách - mình buột miệng trả lời, và chợt nghĩ, có lẽ anh ta
chưa thấy một cuốn sách bao giờ, có thể anh ta cũng không biết đọc biết viết
cũng nên.
- Nếu bây giờ có sách thì anh thích đọc ai? - anh ta hỏi.
- Voltaire! - một lần nữa mình lại buột miệng. Và lại nghĩ: Nói với anh ta
về Voltaire thì cũng chẳng khác gì nói với gốc cây mủng mà mình đang ngồi dựa
lưng. Nhưng nhu cầu được chuyện trò bộc bạch với con người nó cũng lớn như nhu
cầu được ăn, được uống… Nhiều lúc chẳng cần biết có ai nghe mình, hiểu mình hay
không. Đó chính là tâm trạng của anh công chức nát rượu Marmeladov bất chợt nói
to lên những điều tủi hổ nung nấu trong lòng với những người vớ vẩn trong một
quán rượu tồi tàn, mà Dostoievsky miêu tả trong “Tội ác và Trừng phạt”
Anh ta ngồi bó gối, mắt không rời mặt sông loá nắng, hỏi lại:
- Trong các tác phẩm của Voltaire, anh thích nhất tác phẩm nào?
Mình sửng sốt nhìn anh ta, và tự nhiên trong đầu nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ: một
người nào khác đã ngồi thay vào chỗ anh ta… Mình lại liên tưởng đến một cậu làm
việc cùng phòng hồi còn ở Đài phát thanh, tốt nghiệp đại học hẳn hoi, đọc tên
nhạc sĩ Chopin (Sôpanh) là Cho Pin.
Mình trả lời anh ta:
- Tôi thích nhất là Candide.
- Anh có thích đọc Candide ngay bây giờ không?
Không đợi mình trả lời, anh ta nói tiếp:
- Không phải đọc mà nghe… Tôi sẽ đọc cho anh nghe ngay bây giờ.
Rồi anh ta cất giọng đều đều đọc nguyên bản Candide. Anh đọc chậm rãi, phát
âm chuẩn và hay như mấy cha cố người Pháp, thầy dạy mình ở trường Providence. Mình
trân trân nhìn cái miệng rúm ró, răng vàng khè đầy bựa của anh ta như nhìn phép
lạ. Còn anh ta, mắt vẫn không rời dòng sông loá nắng, tưởng chừng như anh ta
đang đọc thiên truyện Candide nguyên bản được chép lên mặt sông…
Anh đọc đến câu cuối cùng thì kẻng ở trại cũng vang lên từng hồi, báo đến
giờ lùa trâu về trại. Người lính gác trên bờ cao nói vọng xuống: "Hai đứa
xuống lùa trâu, nhanh lên! ".
- Chúng mình lùa trâu lên bờ đi! - anh nói.
Lội ra đến giữa sông, mình hỏi anh ta:
- Anh là ai vậy?
Anh ta cỡi lên lưng một con trâu, vừa vung roi xua những con trâu khác, trả
lời:
- Tôi là cái thanh ngang trên cây thập tự đóng đinh Chúa.
Rồi anh ta tiếp:
- Đừng nói với bất cứ ai chuyện vừa rồi…
Giáp mặt người lính canh, bộ mặt anh ta thay đổi hẳn - ngu ngơ, đần độn như
thường ngày.
Cuối mùa đông năm đó, anh ta ngã bệnh. Nghe các trại viên kháo nhau mình
mới biết.
Thằng chuyên gia khâm liệm e đi đong. Thế là nếu bọn mình ngoẻo, sẽ không
còn được khâm liệm tử tế và chẳng có ai khóc tống tiễn vong hồn… - những người
tù nói, giọng buồn.
Mình gặp giám thị trại, xin được thăm anh ta.
Giám thị hỏi:
- Trước kia anh có quen biết gì thằng này không?
Mình nói:
- Thưa cán bộ, không. Chúng tôi hay đi lùa trâu với nhau nên quen nhau thôi.
Giám thị đồng ý cho mình đến thăm, có lính đi kèm. Anh ta nằm cách ly trong
gian lán dành cho người ốm nặng. Anh ta nằm như dán người xuống sạp nằm, hai
hốc mắt sâu trũng, nhắm nghiền, chốc chốc lại lên cơn co giật…
Mình cúi xuống sát người anh ta, gọi hai ba lần, anh ta mới mở mắt, chăm
chăm nhìn mình. Trên khoé môi rúm ró như thoáng một nét cười. Nước mắt mình tự
nhiên trào ra rơi lã chã xuống mặt anh ta. Anh ta thè luỡi liếm mấy giọt nước
mắt rớt trúng vành môi. Anh ta thều thào nói:
- Tuân ở lại, mình đi đây… Đưa bàn tay đây cho mình…
Anh ta nắm chặt bàn tay mình hồi lâu. Một tay anh ta rờ rẫm mớ giẻ rách
khoác trên người, lấy ra một viên than củi, được mài tròn nhẵn như viên phấn
viết. Với một sức cố gắng phi thường, anh ta dùng viên than viết vào lòng bàn
tay mình một chữ nho. Chữ NHẪN.
Viết xong, anh ta hoàn toàn kiệt sức, đánh rớt viên than, và lên cơn co
giật.
Người lính canh dẫn mình lên giám thị trại với bàn tay có viết chữ Nhẫn
ngửa ra. Người lính canh ngờ rằng đó là một ám hiệu.
Giám thị hỏi:
- Cái hình nguệch ngoạc này có ý nghĩa gì? Anh mà không thành khẩn khai báo,
tôi tống cổ anh ngay lập tức vào biệt giam.
Mình nói
- Thưa cán bộ, thật tình tôi không rõ. Anh ta chỉ nói: tôi vẽ tặng cậu một
đạo bùa để xua đuổi bệnh tật và tà khí.
Nghe ra cũng có lý, giám thị trại tha cho mình về lán…
Phùng Quán
Cha
Gioan Lasan NGUYỄN VĂN VINH
(1912–1971)
(1912–1971)
Cha
chính Hà Nội − Tấm gương can trường
Cha Gioan Lasan Nguyễn Văn
Vinh chào đời ngày 2 tháng 10 năm 1912 tại làng Ngọc Lũ, huyện Bình Lục, tỉnh
Hà Nam.
Cậu Vinh, một thiếu niên vui
vẻ, thông minh, có năng khiếu nghệ thuật bẩm sinh về âm nhạc, ca hát. Cậu biết
kính trên, nhường dưới, trong xứ đạo, ai cũng quý yêu. Cha xứ Ngọc Lũ thời đó
là Cố Hương, một cha người Pháp tên là Dépaulis giới thiệu cậu lên học tại
trường Puginier Hà Nội. Năm 1928, cậu học Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên, Phú
Xuyên, Hà Tây.
Năm 1930, thầy Vinh được cố
Hương dẫn sang Pháp du học. Năm 1935, thầy vào Đại Chủng viện St Sulpice,
Paris. Ngày 20-6-1940, thầy được thụ phong linh mục ở Limoges .
Chiến tranh thế giới xảy ra,
cha Vinh phải ở lại Pháp và tiếp tục học tập. Ngài học Văn Khoa-Triết tại Đại
Học Sorbonne, học sáng tác và hòa âm tại Nhạc viện Quốc Gia. Ngài phải vừa học
vừa làm. Vóc dáng nhỏ nhắn dễ thương của ngài đã làm cho nhiều người Pháp tưởng
lầm ngài là phụ nữ nên cứ chào: Bonjour Madame! Nhưng ẩn trong cái dáng vóc nhỏ
bé đó là một tâm hồn rộng lớn, sau đôi mắt sáng là tính cương trực, dưới nụ
cười là ý chí sắt son.
Sau khi tốt nghiệp cử nhân
Văn Triết ở Sorbonne, ngài gia nhập dòng khổ tu Biển Đức tại Đan Viện Ste
Marie.
Sau 17 năm du học, năm 1947
cha Vinh về nước, nhằm góp sức xây dựng một Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vững
mạnh về mọi mặt. Khi ấy, Đức cha François Chaize - Thịnh, Bề trên Giáo phận đã
bổ nhiệm ngài làm cha xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội. Ngài xin Bề trên lập dòng Biển Đức
ở Việt Nam ,
nhưng không thành.
Cha Vinh, dù tu học ở Pháp
nhưng luôn có tinh thần yêu nước, độc lập, không nệ Pháp. Năm 1951, Nhà Thờ Lớn
Hà Nội tổ chức lễ an táng cho Bernard, con trai tướng De Lattre de Tassigni.
Trong thánh lễ, tướng De Lattre kiêu căng đòi đặt ghế của ông trên cung thánh
và bắt chuyển ghế của Trần Văn Hữu, Thủ tướng Việt Nam xuống dưới lòng nhà thờ. Vì
lòng tự trọng dân tộc, danh dự quốc gia, cha Vinh cương quyết không chịu. Tướng
De Lattre rất tức giận, gọi cha Vinh tới, đập bàn quát tháo, đe dọa. Cha Vinh
cũng đập bàn, lớn tiếng đáp lại, quyết không nhượng bộ, nhưng Thủ tướng ngại
khó nên tự nguyện rút lui. Sau vụ đó, để tránh căng thẳng, Đức Cha Khuê đã
chuyển cha Vinh làm giáo sư của Tiểu Chủng Viện Piô XII, phụ trách Anh văn,
Pháp văn, âm nhạc, triết học; ngài khiêm tốn vâng lời. Ngài cũng giảng dạy Văn
Triết ở trường Chu Văn An.
Năm 1954, Đức cha Trịnh Như
Khuê cho phép cha Vinh và cha Nhân đưa chủng sinh đi Nam, nhưng cả hai đều xin
ở lại sống chết với giáo phận Hà Nội, dù biết hoàn cảnh đầy khó khăn, nguy
hiểm. Đức Cha Khuê bổ nhiệm ngài làm Cha Chính, kiêm Hiệu Trưởng trường Dũng
Lạc.
Ngài tổ chức lớp học giáo lý
cho các giới, có những linh mục trẻ thông minh, đạo đức cộng tác, như cha
Nguyễn Ngọc Oánh, cha Nguyễn Minh Thông, cha Phạm Hân Quynh. Lúc đầu, lớp học
được tổ chức thành nhóm nhỏ tại phòng khách Tòa Giám Mục, về sau, con số người
tham dự tăng dần, lớp học được chuyển tới nhà préau, và ngồi ra cả ngoài sân.
Lớp học hiệu quả rất lớn, những tín hữu khô khan thành đạo đức nhiệt thành, ảnh
hưởng lan tới cả giới sinh viên và giáo sư đại học, nhiều người gia nhập đạo.
Sau chính quyền ra lệnh ngừng hoạt động vì lý do an ninh.
Khi cha Vinh đang làm Hiệu
Trưởng Dũng Lạc, Chính phủ ra chỉ thị phải treo ảnh lãnh tụ thay vào ảnh Thánh
Giá ở các lớp học. Ngài không tuyên đọc chỉ thị cũng không tháo bỏ Thánh giá,
nên năm 1957, trường bị đóng cửa.
Thời bấy giờ, Đại học Y khoa
Hà Nội thiếu giáo sư, nên đã đề nghị Đức Cha Khuê cử cha Vinh đến trường dạy La
tinh. Nhiều sinh viên cảm phục ngài. Một hôm, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc
đến thăm trường, thấy bóng dáng chiếc áo chùng thâm linh mục, ông nói với đoàn
tháp tùng: “Đến giờ này mà còn có linh mục dạy ở Đại Học quốc gia ư?”. Ít lâu
sau trường Đại học Y khoa không mời cha dạy nữa.
Biết tài năng và kiến thức
âm nhạc của ngài, nhiều nhạc sĩ ở Hà Nội tìm cha Vinh tham khảo ý kiến và nhờ
xem lại những bản nhạc, bài ca họ mới viết.
Cha Vinh, một trong những
nhạc sĩ tiên phong của Thánh nhạc Việt Nam , và là một nhạc sĩ toàn tài.
Ngài chơi vĩ cầm và dương cầm thật tuyệt, ngài kể chính ngài là người Việt Nam đầu tiên
chơi vĩ cầm ở Hà Nội. Ngài có năng khiếu đặc biệt về âm nhạc, lại được học tập
chu đáo nên đã sáng tác và để lại nhiều nhạc phẩm tôn giáo tuyệt vời. Cha Vinh
trình bày bản hợp tấu ‘Ở Dưới Vực Sâu’ nhân cuộc đón tiếp phái đoàn Việt Nam do
ông Hồ Chí Minh dẫn đầu sang dự Hội Nghị Fontainebleau năm 1946.
Cộng tác với Hùng Lân sáng
tác ‘Tôn Giáo Nhạc Kịch Đa-Vít’. Ngài còn sáng tác nhiều nhạc phẩm lớn: ‘Mở
Đường Phúc Thật’, ‘Tôn Vinh Thiên Chúa Ba Ngôi’, ‘Ôi GiaVi’, ‘Lạy Mừng Thánh Tử
Đạo’. Ngài phổ nhạc cho các Ca Vịnh 8 , Ca vịnh 16, Ca vịnh 23, Ca vịnh 41, Ca
vịnh 115 và nhiều bài hát khác như Đức Mẹ Vô Nhiễm, Thánh Tâm Giêsu. Ngài còn
viết những bài ca sinh hoạt: Sao Mai, Đời Người, phổ nhạc bài ‘Bước Tới Đèo
Ngang’ của Bà Huyện Thanh Quan.
Hằng tuần ngài đến dạy nhạc,
xướng âm và tập hát bên chủng viện Gioan. Cha Vinh có giọng nam cao, âm hưởng
thanh thoát, lôi cuốn.
Ngài tổ chức và chỉ huy đồng
ca trong nhiều cuộc lễ và rước kiệu lớn như cuộc Cung Nghinh Thánh Thể từ Hàm
Long về Nhà Thở Lớn Hà Nội.
Năm 1957, Nhà nước muốn tỏ
cho dân chúng trong nước và thế giới thấy là ở Việt Nam Đạo Công giáo tự do hành đạo,
và tổ chức được những lễ nghi long trọng, tưng bừng. Dip Lễ Noel, chính quyền
tự động cho người đến chăng dây, kết đèn quanh Nhà Thờ Lớn, sau lễ họ vào đòi
nhà xứ Hà Nội phải thanh toán một số tiền chi phí lớn về vật liệu và tiền công.
Năm 1958 cũng thế, gần đến lễ Noel, không hề hỏi han, xin phép, một số người
của Nhà nước ngang nhiên đưa xe ô tô chuyển vật liệu, tự động bắc thang, chăng
dây treo bóng điện màu trang trí ở mặt tiền và trên hai tháp Nhà Thờ Lớn. Cha
xứ thời đó là cha Trịnh Văn Căn bảo vệ chủ quyền Giáo Hội trong khuôn viên cơ
sở tôn giáo, không đồng ý, nhưng họ cứ làm. Để phản đối, cha Căn liền cho kéo
chuông nhà thờ cấp báo, giáo dân kéo đến quảng trường nhà thờ rất đông ủng hộ
cha xứ, hai bên to tiếng. Cha Căn gọi Cha Vinh ra can thiệp, sau một hồi tranh
luận không kết quả, cha Vinh kéo những người của Nhà nước đang leo thang chăng
đèn xuống, rồi chính ngài leo lên thang, hai tay đưa cao trước mặt, hai bàn tay
nắm lại, hai cườm tay đặt cho nhau, làm dấu hiệu còng tay số 8, và nói lớn: “Tự
do thế này!” Vụ giằng co lộn xộn kéo dài suốt buổi sáng, công cuộc trang trí
không thành.
Cha Căn, cha Vinh cùng một
số giáo dân bị cơ quan an ninh thẩm vấn, đem ra xét xử. Tòa án nhân dân Hà Nội
tuyên án: Cha Trịnh Văn Căn, Chính xứ Nhà Thờ Lớn, người chịu trách nhiệm tổ
chức lễ Noel năm 1958 chịu án 12 tháng tù treo. Cha Chính Nguyễn Văn Vinh chịu
án 18 tháng tù giam, với tội danh: “Vô cớ tập hợp quần chúng trái phép, phá rối
trị an, cố tình vu khống, xuyên tạc chế độ, gây chia rẽ trong nhân dân” (!).
Sau phiên tòa, cha Vinh bị
đưa đi giam ở Hỏa Lò, sau bị chuyển đi nhiều trại giam khác như Chợ Ngọc, Yên
Bái, cuối cùng là trại “Cổng Trời”, nơi dành riêng cho các tù nhân tử tội.
Khi cha Vinh mới đến trại
Yên Bái, ngài còn được ở chung với các tù nhân khác, nhiều giáo dân, chủng
sinh, tu sĩ đến xin cha giải tội, vì thế ngài bị kỷ luật, phải biệt giam, bị
cùm chân trong xà lim tối. Mấy tháng sau được ra, ngài lại ban phép giải tội.
Cán bộ hỏi: “Tại sao bị cùm, bị kỷ luật, được ra, anh tiếp tục phạm quy?” Ngài
đáp: “Cấm là việc của các ông, giải tội là việc của tôi, còn sống ngày nào, tôi
phải làm bổn phận mình!”.
Ở tù đói rét là đương nhiên,
lúc nào cũng đói, hằng ngày mỗi bữa một bát sắn độn cơm, ăn với lá bắp cải già
nấu muối, khi chia cơm phải cân đong từng chút một... Một lần cha Vinh nhận
được gói bưu kiện do cha Cương, quản lý Nhà Chung Hà Nội, gửi lên, trong đó có
ít thức ăn, lương khô và vài đồ dùng cá nhân, ngài đem chia sẻ cho anh em trong
nhóm, cả Công giáo lẫn lương dân, ăn chung, dùng chung. Anh em tù hình sự thân
thương gọi ngài là ‘bố’.
Ngay trong nhà tù, cha Vinh
vẫn can đảm bảo vệ người bị áp bức, có lần một tổ trưởng đánh đập tù nhân, ngài
lên tiếng bênh vực, liền bị người tổ trưởng này xông đến giang tay đánh, ngài
đưa tay gạt, anh ta ngã khụy. Từ đó trong trại có tiếng đồn cha Vinh giỏi võ,
mọi người phải nể vì.
Một cán bộ cao cấp ở Hà Nội
lên Cổng Trời gặp cha Vinh, nói: “Đảng và Chính phủ muốn anh được tha về, nhưng
với điều kiện phải cộng tác với linh mục Nguyễn Thế Vịnh (Chủ tịch Ủy Ban Liên
Lạc Công Giáo). Nếu anh đồng ý, anh có thể về Hà Nội ngay bây giờ với tôi”.
Ngài khẳng khái đáp: “Ông Vịnh có đường lối của ông Vịnh. Tôi có đường lối của
tôi”.
Vì không khuất phục được
ngài, nên bản án của ngài từ 18 tháng tù giam, không qua một thủ tục pháp lý án
lệnh nào, đã biến thành 12 năm tù kiên giam, xà lim biệt giam và án tử. Năm
1971, khi ngài từ trần không ai được biết, một năm sau, chính quyền mới báo cho
Đức Cha Khuê và cha Cương quản lý Nhà Chung: “Ông Vinh đã chết. Không được làm
lễ áo đỏ cho ông Vinh!”.
Suốt đời mình, trong mọi
tình huống cha Chính Vinh làm trọn trách vụ của mình. Ngài đã mạnh mẽ rao giảng
Tin Mừng và làm chứng cho đức tin, khi thuận tiện cũng như khó khăn. Vượt mọi
thử thách gian khó, không chịu khuất phục trước cường quyền, luôn trung kiên
với Thiên Chúa và Giáo Hội.
Cha Chính Gioan Lasan Nguyễn
Văn Vinh là một chứng nhân của thời đại, một linh mục Công Giáo Việt Nam can trường,
hậu thế kính tôn và ghi ân ngài.
TGP Hà Nội
No comments:
Post a Comment