Saturday, June 13, 2020

TN12a - Niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa giúp ta thắng vượt sợ hãi




CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật thứ 12 Thường Niên

(21-06-2020)


Niềm tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa giúp ta thắng vượt sợ hãi

 ► Video: https://www.youtube.com/watch?v=N-mRuR0hqqo

ĐỌC LỜI CHÚA

  Gr 20,10-13: (11) Đức Chúa hằng ở bên con như một trang chiến sĩ oai hùng. Vì thế những kẻ từng hại con sẽ thất điên bát đảo, sẽ không thắng nổi con. Chúng sẽ phải thất bại, và nhục nhã ê chề: đó là một nỗi nhục muôn đời không thể quên.

  Rm 5,12-15: (15) Sự sa ngã của Ađam không thể nào sánh được với ân huệ của Thiên Chúa. Thật vậy, nếu vì một người duy nhất đã sa ngã, mà muôn người phải chết, thì ân sủng của Thiên Chúa ban nhờ một người duy nhất là Đức Giêsu Kitô, còn dồi dào hơn biết mấy cho muôn người.


  TIN MỪNG: Mt 10,26-33

Hãy nói giữa ban ngày, đừng sợ


(26) Vậy anh em đừng sợ người ta. Thật ra, không có gì che giấu mà sẽ không được tỏ lộ, không có gì bí mật, mà người ta sẽ không biết. (27) Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng.

 (28) «Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục. (29) Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào phải không? Thế mà, không một con nào rơi xuống đất ngoài ý của Cha anh em. (30) Thì đối với anh em cũng vậy, ngay đến tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi. (31) Vậy anh em đừng sợ, anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ.

 (32) «Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. (33) Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1.       Giữa hai câu: «Phải can đảm thì mới làm ngôn sứ được» và «phải quyết tâm làm ngôn sứ thì mới phát sinh lòng can đảm», câu nào đúng hơn? 
2.       Bạn có quan tâm đến nghĩa vụ ngôn sứ (=làm chứng cho Thiên Chúa, cho Đức Giêsu, cho chân lý, công lý và tình thương) trong đời sống không? 
3.       Làm sao để đừng sợ khi phải làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương?


Suy tư gợi ý:

Bài Tin Mừng hôm nay nói về đức «vô úy» (không sợ) hay tính «can đảm» mà người Kitô hữu sẽ có khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ vương đế (làm chủ)ngôn sứ (làm chứng) mà họ đã lãnh nhận khi chịu phép rửa tội. 

Bài Tin Mừng hôm nay nói rất mạnh đến sứ mạng của chúng ta là làm chứng cho Đức Giêsu: «Điều Thầy nói với anh em lúc đêm hôm, thì hãy nói ra giữa ban ngày; và điều anh em nghe rỉ tai, thì hãy lên mái nhà rao giảng» (Mt 10,27). Sứ mạng ấy không phải là ta muốn làm hay không tùy ý ta mà nó có thể đem đến những kết quả tốt: «Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy» (Mt 10,32), hoặc hậu quả xấu: «Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy» (Mt 10,33).



1.  Nghĩa vụ ngôn sứ trong đời sống Kitô hữu

Đây là một nghĩa vụ quan trọng nhưng người Kitô hữu thường lãng quên, phần lớn là do những người có trách nhiệm giáo dục trong Giáo Hội chưa quan tâm nhắc nhở hay nhấn mạnh đủ. Nói chung, người ta có khuynh hướng giản lược Kitô giáo vào nghĩa vụ tư tế (làm lễ, hay thờ phượng Chúa)bỏ quên hai nghĩa vụ còn lại là:

–  vương đế (làm chủ bản thân, gia đình, xã hội và Giáo Hội), và

–  ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình thương bằng lời nói và nhất là bằng đời sống).

Thật vậy, rất nhiều Kitô hữu coi việc đọc kinh, cầu nguyện, lãnh nhận các bí tích quan trọng hơn cả việc sống cho có tình có nghĩa với người khác

Nhiều mục tử coi bổn phận cử hành các bí tích cho con chiên còn quan trọng hơn cả việc làm chứng cho chân lý, công lý và tình thương, hơn cả nghĩa vụ bênh vực con chiên mình khi họ bị ức hiếp, đối xử bất công

Thậm chí hai nghĩa vụ sau không còn được coi là nghĩa vụ nữa. Hành xử như thế, người Kitô hữu đang trình bày cho thế giới bằng chính đời sống mình một thứ Kitô giáo què quặt, biến dạng, méo mó, một thứ Kitô giáo «thuốc phiện», đầy tính ru ngủ… 

Kitô giáo đó khác hẳn với thứ Kitô giáo do Đức Giêsu thiết lập, một Kitô giáo coi trọng sự thật, công lý, tình thương, mang nặng tính dấn thân và phục vụ (x. Mt 23,23b)

Chúng ta cùng xét lại xem trong ba nghĩa vụ ấy Đức Giêsu coi nghĩa vụ nào là quan trọng ưu tiên. Ngài nói: 
●  «Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế» (Mt 9,13)
●  «Những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, tình thương và sự chân thật» (Mt 23,23b)
●  «Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình» (Mt 6,2324)

Ngài còn nhấn mạnh: 
●  «Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau» (Ga 13,35)
●  chứ không phải ở dấu thánh giá, hay việc cầu nguyện, đi lễ, rước lễ, mặc dù những việc này không được bỏ hay coi thường (Mt 23,23c).

Bổn phận ưu tiên phải làm chứng cho tình yêu, nghĩa là phải thật sự yêu thương anh chị em mình – là hiện thân của Đức Giêsu – cũng được Thánh Gioan Kim Khẩu nhấn mạnh: «Anh em có muốn tôn kính thân thể Chúa Kitô không? Vậy thì đừng bỏ qua Ngài khi thấy Ngài trần truồng. Đừng tôn vinh Ngài với đủ gấm vóc lụa là trong đền thờ, trong khi lại bỏ mặc Ngài đang run lạnh và trần truồng ngoài trời. Đấng đã từng nói “Đây là mình Thầy” cũng chính là Đấng sẽ nói "Các ngươi đã thấy ta đói mà không cho ăn"… Có ích gì khi bàn Thánh Thể thì chất nặng những chén lễ bằng vàng, trong khi Đức Kitô đang hấp hối vì đói khát? Hãy cho Ngài hết đói khát đã, rồi mới lấy những gì còn lại mà trang hoàng bàn thờ!» (Tông huấn Giáo Hội tại châu Á, số 41§2). Có phải nhiều người chúng ta trong thực tế đã quan niệm và hành xử khác hẳn không?

Dù vô tình hay cố ý, sự giản lược hay bỏ quên hai nghĩa vụ sau rất dễ hiểu, vì trong bất kỳ tôn giáo nào, việc thờ cúng hay cầu xin thần linh cũng hứa hẹn nhiều lợi lộc (về thiêng liêng cũng như vật chất) cho người thi hành nó. Động lực thúc đẩy người ta thờ cúng hay cầu xin nhiều khi là vị kỷ, vì ích lợi cá nhân cho dù là thiêng liêng. Và sự quan trọng hóa việc thờ cúng thần linh chẳng những không làm mất mát gì cho giới tăng lữ mà còn đem lại cho họ rất nhiều quyền và lợi

Còn hai nghĩa vụ kia mang tính vị tha, đòi hỏi tất cả những ai muốn thi hành nó phải xả thân, hy sinh, chấp nhận mất mát, thiệt thòi

Tuy nhiên, hai nghĩa vụ này rất cần thiết cho quyền lợi chung của con người, của xã hội và Giáo Hội. Muốn thi hành hai nghĩa vụ này, cần phải «dám», phải «vô úy», «không sợ», phải can đảm chấp nhận đau thương. Đừng nghĩ rằng có đức «vô úy» rồi thì ta mới thi hành được nghĩa vụ ngôn sứ, mà hãy nghĩ rằng ta sẽ có nhân đức này khi quyết tâm thi hành nghĩa vụ ấy. Đừng sợ rằng mình không có can đảm, hãy sợ rằng mình không muốn can đảm.



2.  Tại sao lại «đừng sợ»?

Đức Giêsu đưa ra một số lý do để khuyên ta đừng sợ:

a) Phải sợ Thiên Chúa hơn sợ người ta

Ngài đã đưa ra một nỗi sợ lớn hơn để tiêu diệt nỗi sợ nhỏ hơn. Ngài nói: «Đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục» (Mt 10,28). Thật vậy, rất có thể một ngày nào đấy Vua Giêsu nói với ta: «Quân bị nguyền rủa kia, hãy đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn» (Mt 25,41tt). Hoặc «Phường hèn nhát kia, hãy xéo khỏi mặt Ta, vì các ngươi đã không dám làm chứng, không dám nói sự thật để bênh vực công lý, bênh vực Ta khi Ta bị đàn áp, bách hại, hàm oan…». Bài Tin Mừng cũng nói: «Ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy» (Mt 10,33)

Nghĩ như thế, ta sẽ có thêm can đảm để nói và làm những gì cần phải nói phải làm. Không chịu chấp nhận tai họa nhỏ để rồi phải chấp nhận một tai họa lớn gấp bội thì thật là ngu xuẩn!

b) Phải tin vào phẩm giá cao quý của mình và tình thương quan phòng của Thiên Chúa

Con người –nhất là người Kitô hữu– là «con cái Thiên Chúa» (Mt 5,15; Rm 8,14.16; Gl 3,26; 4,6), được dựng nên «giống như Ngài» (St 1,26), «theo hình ảnh của Ngài» (1,26.27), được «thông phần bản tính Thiên Chúa» (1Pr 1,4), được Thiên Chúa yêu thương (Ga 3,16; 1Ga 3,1). Như vậy, con người có một phẩm giá hết sức cao quí. Cao quí đến nỗi Thiên Chúa đã phải sai Con Một mình xuống thế chịu chết cho con người (x. Rm 5,6-8; 1Cr 15,3). Đức Giêsu nói: «Hai con chim sẻ chỉ bán được một hào, thế mà không một con nào rơi xuống đất ngoài thánh ý Thiên Chúa» (Mt 10,29). Là con cái Thiên Chúa, được thông phần bản tính Ngài, ta quí giá hơn chim sẻ hàng tỷ lần: «anh em còn quý giá hơn muôn vàn chim sẻ», đến nỗi «tóc trên đầu anh em, Người cũng đếm cả rồi»! (Mt 10,30) Như vậy, có chuyện gì xảy đến với ta khi ta làm chứng cho Ngài lại không do thánh ý Ngài?



3.  Xét mình

Như vậy, nếu có đức tin, ta sẽ không sợ. Nhưng liệu ta có đủ đức tin để không sợ hầu làm chứng cho Thiên Chúa, cho chân lý, công lý và tình yêu chăng? Rất có thể ngoài miệng ta tuyên xưng đức tin rất mạnh mẽ, đồng thời sẵn sàng kết án những kẻ tuyên xưng khác với ta. Nhưng nếu thành thực xét lại niềm tin của ta vào sự quan phòng của Thiên Chúa để dám dấn thân thật sự, rất có thể ta lại thấy đức tin ta còn yếu kém hơn cả những kẻ ta kết án! Và để khỏi phải dấn thân như đức tin và lương tâm đòi hỏi, ta thường nại vào sự khôn ngoan và thận trọng. Nhưng quả thật khó mà xác định được lằn ranh giữa khôn ngoan và hèn nhát! Ta có thể nhân danh sự khôn ngoan để có thể hèn nhát «một cách có lý» hầu không ai chê trách được! Và cũng như thầy tư tế, thầy Lêvi và người Do Thái trong dụ ngôn người Samari nhân hậu (Lc 10,30-37), ta có thể nhân danh nghĩa vụ tư tế (làm lễ) để khỏi phải làm nghĩa vụ ngôn sứ (làm chứng) của mình. Đó quả là vấn đề tế nhị của lương tâm mà mỗi Kitô hữu cần năng tự vấn!



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, con là người nhát, nhưng con lại không muốn sống hèn, không muốn trở nên một thằng hèn. Xin ban cho con thật nhiều tình yêu đối với Cha và tha nhân, vì chỉ có tình yêu mới làm cho con can đảm thật sự. Cũng như người mẹ vì yêu thương con mà trở nên vô cùng can đảm, sẵn sàng chấp nhận đau khổ và cả cái chết khi con mình gặp nguy hiểm. Xin hãy ban cho con nhiều tình yêu hơn nữa


Thursday, June 4, 2020

MinhMauChua2 - Đức Giêsu là thức ăn tâm linh




CHIA SẺ TIN MỪNG

Lễ Mình Máu Thánh Chúa

(14-06-2020)

Bài đào sâu

Đức Giêsu là thức ăn tâm linh

► Video: https://www.youtube.com/watch?v=A5nLKo_DqxY


  TIN MỪNG: Ga 6,51-58

Đức Giêsu là bánh hằng sống





CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1.   Con người được cấu tạo gồm mấy phần? Phần nào quan trọng hơn? Người ta thường quan tâm lo lắng cho phần nào? Người chỉ quan tâm lo cho phần kém quan trọng mà bỏ quên phần quan trọng có khôn ngoan không? 
2.   Đức Giêsu nói: «Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống». «Thịt» và «máu» ở đây có phải là thịt và máu thể chất không? «Của ăn» và «của uống» đây thuộc loại nào: loại nuôi sống tâm linh hay nuôi sống thể chất? 
3.   Cách ăn thức ăn tâm linh có giống như cách ăn thức ăn thể chất không? Khác thế nào? Có thể dùng thân xác để ăn thức ăn tâm linh không?

Suy tư gợi ý:

1.  Hai loại sự sống, hai loại đồ ăn thức uống

Đức Giêsu nói về bánh hằng sống sau khi dân chúng đến tìm kiếm Ngài để mong Ngài làm phép lạ hóa bánh ra nhiều như Ngài vừa mới làm trước đó một ngày (x. Ga 6,1-15). Ngài biết rõ tâm ý họ khi đến với Ngài là để tìm của ăn vật chất: «Các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê» (Ga 6,26). Lợi dụng việc họ tìm kiếm bánh vật chất, Đức Giêsu giới thiệu cho họ bánh hằng sống hay bánh tâm linh. Cũng như khi gặp người phụ nữ Samari muốn kín nước vật chất để uống, Đức Giêsu lợi dụng cơ hội này để giới thiệu nước hằng sống hay nước tâm linh. Bánh hay nước hằng sống đều chính là Đức Giêsu.

Thông thường, con người thời nào cũng ham mê tìm của ăn thức uống vật chất, là nhu cầu cấp thiết của con người về sự sống, vì không ai sống được mà không cần ăn hoặc uống. Ngoài mục đích duy trì sự sống thể chất, con người còn muốn hưởng thụ khoái lạc trong việc ăn uống nữa và trong mọi phương diện thể chất khác nữa. Nói chung, con người quá mải mê lo lắng cho sự sống thể chất. Nhưng con người đâu chỉ có sự sống thể chất, mà còn một sự sống khác nữa quan trọng hơn gấp bội, đó là sự sống tâm linh

Sự sống thể chất kéo dài nhiều lắm chừng trăm năm, sự sống ấy dù hạnh phúc hay đau khổ thì cũng chỉ hạnh phúc hay đau khổ khoảng trăm năm, rồi chấm dứt. Còn sự sống tâm linh, là sự sống chủ yếu của con người, ngoài việc tạo cho sự sống thể chất một ý nghĩa, và làm cho sự sống thể chất hạnh phúc hay đau khổ hơn bội phần, còn là thứ sự sống kéo dài muôn đời. Nếu đời sống tâm linh đau khổ thì sẽ là đau khổ muôn đời, và nếu nó hạnh phúc thì cũng sẽ hạnh phúc muôn đời. Do đó, đúng ra con người phải quan tâm tới sự sống tâm linh nhiều hơn bội phần

Nếu sự sống thể chất có thức ăn thức uống để nuôi dưỡng và phát triển nó, thì sự sống tâm linh cũng có đồ ăn và thức uống riêng của nó. Đức Giêsu muốn giới thiệu và giúp con người ý thức về thứ đồ ăn thức uống nuôi dưỡng sự sống tâm linh ấy.



2.  Đồ ăn thức uống tâm linh

Khi giới thiệu nước hằng sống, Đức Giêsu nói với người phụ nữ Samari: «Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời» (Ga 4,14). Lần này, với người Do Thái, Đức Giêsu nói về bánh hằng sống: «Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống» (Ga 6,51). Nghe câu ấy, lập tức người Do Thái hiểu ngay theo nghĩa đen: «Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?» (Ga 6,52). Cũng tương tự như người phụ nữ Samari: «Xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước» (Ga 4,15). Ngay cả các tông đồ đã được Đức Giêsu giáo dục mấy năm, khi nghe Ngài nói: «Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết» (Ga 4,32), cũng chỉ biết hiểu theo nghĩa đen. Họ sầm xì với nhau: «Đã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?» (Ga 3,33). Nhưng Đức Giêsu cho biết chữ «lương thực» mà Ngài dùng ở đây không có nghĩa vật chất, mà hoàn toàn phải hiểu theo nghĩa tâm linh: «Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người» (Ga 4,34).

Người hướng về vật chất mà hiểu về tâm linh thì ngây ngô làm sao! Làm sao tâm linh lại có thể sống bằng thức ăn vật chất được? Thức ăn cho tâm linh đương nhiên cũng phải là tâm linh! Và chỉ tâm linh mới ăn được thức ăn tâm linh mà thôi! Thể xác làm sao ăn được thức ăn tâm linh? Thật vậy, giả như Đức Giêsu có lấy thịt và máu vật chất trong thân xác của Ngài cho con người ăn, thì thịt và máu ấy chỉ có thể nuôi sống thể xác họ, chứ làm sao nuôi sống tâm linh họ được? 

Cũng tương tự như việc gặp gỡ Đức Giêsu: gặp gỡ Ngài chỉ là gặp gỡ đích thực và có ích lợi nếu sự gặp gỡ đó là gặp gỡ bằng tâm linh. Nếu chỉ gặp gỡ mặt thể chất thì chẳng ích lợi gì cho tâm linh cả. Biết bao kinh sư Do Thái xưa đã từng gặp Ngài, nói chuyện với Ngài nhiều lần, nhưng sự gặp gỡ ấy có ích lợi gì cho tâm linh họ đâu?! Vì «hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên đối diện bất tương phùng» (=Có duyên thì dù ở xa nhau ngàn dặm vẫn có thể gặp nhau, không có duyên thì dù có đối diện cũng không gặp nhau). Có duyên với nhau thì đã là gặp gỡ nhau trong tâm linh rồi!



3.  Đức Giêsu là lương thực tâm linh

Đức Giêsu nói: «Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy» (Ga 6,55-56). Câu này phải hiểu thế nào? – Thịt và máu là cái gì chính yếu nhất cấu tạo nên con người, nên nó tượng trưng cho bản thân con người ấy. Thức ăn là vật dùng để nuôi sống. Nó hiện hữu không vì chính nó, mà hoàn toàn vì sự sống của người ăn nó. Không gì mang tính vị tha bằng thức ăn

Đức Giêsu hiện hữu tại trần gian không phải vì bản thân Ngài, mà vì sự sống vĩnh cửu của con người. Nên một cách nào đó, Ngài chính là thức ăn cho sự sống vĩnh cửu của trần gian. Ý nghĩa ấy còn trở nên rõ ràng hơn khi Ngài nói trong bữa tiệc ly: «Đây là Mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em» (lời Truyền phép trong thánh lễ, x. 1Cr 11,24-25), «Đây là Máu Thầy, sẽ đổ ra cho anh em và nhiều người được khỏi tội» (như trên). Chung quy lại là Ngài chết vì sự sống của con người. Vì thế, Ngài đã trở nên của ăn để nhân loại được sống. Ngài đã trở nên «chiếc bánh bị ăn», nói theo ngôn từ của linh mục Prado.



4.  Phải dùng thức ăn tâm linh thế nào?

Đành rằng Đức Giêsu chính là lương thực tâm linh. Nhưng ăn Ngài thế nào là cả một vấn đề cần phải nắm vững. Nhiều Kitô hữu quan niệm rằng cứ nuốt Đức Giêsu vào bụng một cách vật chất dưới hình dạng bánh thánh, thì chính là ăn Ngài, nhờ đó mà ích lợi cho linh hồn và đời sống tâm linh mình. Thực ra hành động ăn Đức Giêsu dưới dạng bánh thánh chỉ là dấu chỉ hữu hình bề ngoài cho việc ăn Ngài một cách tâm linh xảy ra ở trong nội tâm. Điều quan trọng là phải có hành động ăn Ngài một cách tâm linh ở bên trong thì dấu chỉ bên ngoài kia mới thật sự có ý nghĩa và đem lại lợi ích thật sự cho tâm linh.

Ăn uống Mình và Máu Đức Giêsu chính là nội tâm hóa Ngài, biến Ngài thành bản thân ta.

●  Nội tâm hóa Ngài là gì? – Trước đây, ta quan niệm Đức Giêsu như là một con người hoàn toàn ở bên ngoài ta. Việc Ngài sinh ra, sống, chịu đau khổ, chết đi và sống lại đều là những biến cố độc lập xảy ra bên ngoài bản thân ta, tương tự như bao biến cố lịch sử khác. Nội tâm hóa Đức Giêsu là làm cho Ngài trở thành thực tại sống động ở ngay trong ta, có khả năng ảnh hưởng thật sự trên mọi quan niệm, tư tưởng, lời nói, hành vi của ta. Những biến cố trong cuộc đời Ngài không còn là những biến cố xảy ra trong quá khứ bên ngoài ta, mà là đang xảy ra cách sống động trong ta, tại đây và lúc này.

●  Biến Ngài thành bản thân ta là gì? – Khi ta ăn một thức ăn gì, thức ăn đó sẽ được tiêu hóa để trở thành máu xương, da thịt của ta. Nghĩa là trở thành cái gì đó của ta, thành bản thân ta. Cũng vậy, ăn Đức Giêsu là biến Đức Giêsu trở thành một phần của bản thân ta. Nghĩa là: con người của Ngài, cùng với quan niệm, tư tưởng, cách nói năng, cách hành xử thấm nhuần yêu thương của Ngài sẽ trở thành con người ta, thành quan niệm, tư tưởng, cách nói năng, cách hành xử thấm nhuần yêu thương của ta. Và đến một lúc nào đó, ta có thể nói được: «Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Đức Kitô sống trong tôi» (Gl 2,20).

Cuối cùng, ta trở thành một con người được nội tâm hóa, được tâm linh hóa, hay được kitô hóa, thành một «con người mới» (Ep 4,24; Cl 3,10), «thụ tạo mới» (2Cr 5,17; Gl 6,15), với một «đời sống mới» (Rm 6,4; 8,11) và «tinh thần mới» (Rm 7,6), chủ yếu «sống theo thần khí» hơn là «sống theo xác thịt» (Rm 8,4-6; 1Cr 3,1; Gl 5,17). Lúc đó ta mới cảm nghiệm được thiên đàng tại thế là gì? Và Thiên Chúa hay Đức Giêsu dịu ngọt dường bao!




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, Đức Giêsu chính là của ăn tâm linh. Biết bao người cũng như con biết rất rõ điều ấy, nhưng đã hiểu điều ấy một cách rất vật chất. Vì thế, con đã chẳng «ăn» được Ngài. Vì «ăn» Ngài một cách rất vật chất, nên suốt bao năm «ăn» Ngài, tâm linh con chẳng tiến bộ được bao nhiêu. Con vẫn «sống theo xác thịt» chẳng khác gì bao người chưa hề «ăn» Ngài. Xin Cha giúp con biết cách «ăn» thức ăn tâm linh bằng chính tâm linh của con chứ không phải bằng thể xác của con. Để con nhận được sức mạnh tâm linh thật sự từ Cha, qua Đức Giêsu.              


MinhMauChua1 - «Ăn thịt» và «uống máu» Đức Giêsu phải được hiểu thế nào?




CHIA SẺ TIN MỪNG

Lễ Mình Máu Thánh Chúa 

(14-06-2020)


«Ăn thịt» và «uống máu» Đức Giêsu
phải được hiểu thế nào?


► Video: https://www.youtube.com/watch?v=VQrzK3oEvww



ĐỌC LỜI CHÚA

  Ðnl 8,2-3.14b-16a: (3) Người đã cho anh em ăn manna là của ăn anh em chưa từng biết và cha ông anh em cũng chưa từng biết, ngõ hầu làm cho anh em nhận biết rằng người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn sống nhờ mọi lời miệng Đức Chúa phán ra.

  1Cr 10,16-17: (16) Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Ðức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? (17) Bởi vì chỉ có một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể.

  TIN MỪNG: Ga 6,51-58

Bánh hằng sống từ trời

Khi ấy, Ðức Giêsu nói với đám đông dân chúng rằng: (51) Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống.

(52) Người Dothái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được? (53) Ðức Giêsu nói với họ: Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. (54) Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, (55) vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. (56) Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. (57) Như Chúa Cha là Ðấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. (58) Ðây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời.




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1.     Những câu nói của Ðức Giêsu như: «Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống» (Ga 6,51), «Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống» (Ga 6,55) có ý nghĩa gì? 
2.     Bản thân Ðức Giêsu có thể ví như chiếc bánh bị ăn không? Tại sao? 
3.     Ăn thịt uống máu Ðức Giêsu là gì? Cụ thể là gì?


Suy tư gợi ý:

1.  Bánh hằng sống từ trời xuống ở đây nghĩa là gì?

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu tuyên bố: «Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống» (Ga 6,51). Chúng ta cần phải hiểu câu nói đó theo nghĩa nào? Chắc chắn không thể hiểu theo nghĩa đen, nghĩa là nghĩa vật chất được. 

Viết tới đây tôi nghĩ tới Ðường Tam Tạng đi thỉnh kinh trong truyện Tây Du Ký: nhiều yêu tinh quyết bắt ông cho bằng được để ăn thịt, vì tin rằng cứ ăn thịt ông thì sẽ trường sinh hay trường thọ. Chắc hẳn chẳng ai trong chúng ta tin được rằng thịt của Ðức Giêsu (hiểu theo nghĩa vật chất) là một thứ thuốc hễ ăn vào thì được sống đời đời theo kiểu các yêu tinh tin vào thịt của Ðường Tam Tạng. 

Cũng khó mà hiểu được một cách thuần túy rằng «Thịt đem lại sự sống đời đời» ở đây chỉ là bánh Thánh Thể mà người ta vẫn nhận lãnh khi rước lễ. Vì quả thật không thể tin được là tất cả những ai lên rước lễ dù là hằng ngày thì sẽ được sống đời đời mà không cần một thái độ nội tâm nào (xin nhấn mạnh những chữ viết nghiêng này). Nếu thế thì muốn được sống đời đời quả thật quá dễ dàng! Và nếu thế thì... bánh Thánh Thể quả là một thứ phù phép hay bùa chú vượt trên mọi thứ phù phép trong mọi tôn giáo! Những phù phép trong các tôn giáo nhiều lắm thì hứa hẹn một cái gì tạm thời chóng qua, chứ không hứa hẹn một quyền lợi vô cùng to lớn mang tính đời đời, mà người thụ hưởng chỉ bị đòi hỏi làm một việc mang tính vật lý quá đơn giản! 

Theo tôi nghĩ, chính thái độ nội tâm của ta mới là yếu tố quyết định về phía ta để Thiên Chúa ban sự sống đời đời cho ta hay không. Vì thế, việc ăn thịt và uống máu Ðức Giêsu là một thái độ hay hành vi nội tâm hơn là thể lý! Không có thái độ hay hành vi nội tâm ấy, thì có rước lễ hằng ngày suốt đời cũng chẳng thể có sự sống đời đời. Thật vậy, có ai dám bảo đảm rằng những người rước lễ hằng ngày thì chắc chắn có sự sống đời đời chăng? Riêng tôi, tôi tin tưởng chắc chắn 100% rằng những ai có thái độ nội tâm giống như Ðức Giêsu thì tất nhiên sẽ được Ngài ban sự sống đời đời.

Thiết tưởng, câu nói của Ðức Giêsu «Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời» (Ga 6,51) cần hiểu theo nghĩa tâm linh, nghĩa huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vì nói chung, trong bất kỳ tôn giáo nào, những câu Kinh Thánh có ý nghĩa quan trọng thường được hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn là theo nghĩa đen. Vả lại, chính Ðức Giêsu đã từng dùng từ lương thực hay thức ăn theo nghĩa tâm linh: «"Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết". Các môn đệ mới hỏi nhau : "Ðã có ai mang thức ăn đến cho Thầy rồi chăng?" Ðức Giêsu nói với các ông: "Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Ðấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người"» (Ga 32-34). Thiết tưởng chữ bánh, của ăn, của uống trong bài Tin Mừng hôm nay cũng nên hiểu theo nghĩa ấy.



2.  Cuộc đời và bản thân Ðức Giêsu là một chiếc bánh bị ăn

Một trong những đặc tính căn bản nhất của đồ ăn là nó không hiện hữu vì ích lợi của nó, mà hoàn toàn vì ích lợi của người ăn nó. Nói cách khác, đặc tính căn bản của đồ ăn là hoàn toàn vị tha, không vương một chút vị kỷ nào. Ðức Giêsu cũng hiện hữu và sống hoàn toàn vì Chúa Cha và vì loài người, không hề vì bản thân mình chút nào. Ngài từng nói: «Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng theo ý Ðấng đã sai tôi» (Ga 6,38); «Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào» (Ga 10,10)

Cả cuộc đời Ðức Giêsu, dù xét một cách toàn thể hay theo từng chi tiết, từng hành động, ta thấy Ngài hoàn toàn vị tha, nghĩa là sống vì Chúa Cha và vì nhân loại. Không một hành vi nào chứng tỏ Ngài vị kỷ cả. Cụ thể và hùng hồn nhất là cuộc tử nạn hết sức thê thảm của Ngài: đau khổ đến tận cùng và chết thê thảm không vì ích lợi gì cho mình, mà hoàn toàn vì yêu thương Chúa Cha và nhân loại. Hãy nghe Ngài cầu nguyện hai lần với Chúa Cha trước khi chịu tử nạn: «Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha» (Mt 26,39; x. 26,42)

Sự vị tha ấy đã có từ nguyên thủy khi Ngôi Hai xuống thế: «Ðức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự» (Pl 2,68).

Như vậy, cả cuộc đời Ngài là một cái bánh bị ăn, nhờ thế Thiên Chúa được vinh danh. Con người cũng nhờ thế mà được sống và sống dồi dào (x. Ga 10,10), được phục hồi lại sự sống đời đời đã bị mất vì tội nguyên tổ.



3.  «Ai ăn thịt và uống máu tôi thì được sống muôn đời» (Ga 6,54)

Ðức Giêsu nói: «Thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống» (Ga 6,55). Ðiều ấy chắc chắn là sự thật, nhưng phải hiểu theo nghĩa huyền nhiệm hơn là nghĩa đen. Vấn đề còn lại là ăn thịt và uống máu Ðức Giêsu để được sống muôn đời là gì? Muốn ăn thịt và uống máu Ðức Giêsu thì phải làm gì?

Khi tôi ăn hay uống một thức gì, thì thức ấy được tiêu hóa để trở thành thịt và máu tôi, thành các tế bào của tôi. Thức ấy mà bổ dưỡng hoặc có tính chữa bệnh thì tôi trở nên mạnh khỏe, và bệnh tôi được chữa lành. Nếu tôi ăn hay uống những thức độc hại, thì chất độc ấy cũng trở nên những tế bào độc hại trong thân thể tôi và làm cơ thể tôi suy yếu. Chắc chắn rằng tất cả các tế bào hiện nay của tôi sau mấy chục năm sống ở đời đều hoàn toàn được cấu tạo từ những thức tôi ăn hay uống vào từ bên ngoài. Chính nhờ thức ăn và thức uống mà tôi sống được. Nhưng tôi sống mạnh khỏe hay bệnh tật tùy thuộc vào thức ăn thức uống tôi đưa vào cớ thể, và cũng tùy thuộc cách thức tôi ăn uống nữa. Thức ăn hay thức uống tôi ăn vào từ từ thay thế những tế bào cũ bằng những tế bào mới trong thân thể tôi. Vì thế, nhiều thầy thuốc hay nhà sinh vật học chủ trương người ta có thể cải tạo lại sức khỏe bằng cách thay đổi đồ ăn thức uống và cả cách ăn uống nữa.

Từ thực tế trên, ta có thể hiểu được cách thức ăn thịt và uống máu Ðức Giêsu. Ðức Giêsu là Ngôi Lời, nên bản chất của Ngài là Lời. Lời của Ngài cũng chính là của ăn thức uống. Ðời sống và bản thân của Ngài cũng là của ăn thức uống như đã nói ở phần trên.  Như vậy, ăn uống Ngài chính là dùng lời của Ngài, dùng gương mẫu đời sống Ngài, để suy niệm, thực hành, bắt chước, hầu chất của ta được thay thế dần dần bằng chất của Ngài, nghĩa là ta càng ngày càng trở nên có chất Giêsu hơn trong quan niệm, tư tưởng, lời nói, và hành động của ta

Nếu mỗi ngày ta thay thế một phần trăm hay một phần ngàn, nghĩa là một chút «chất tôi» bằng một chút «chất Ngài» thì chỉ một thời gian sau «chất tôi» đầy ích kỷ, tham lam, ghen ghét sẽ giảm đi, và «chất Ngài» đầy vị tha, đầy tình yêu sẽ tăng lên. Và tới một lúc nào đó, «chất Ngài» ở trong tôi trở thành viên mãn, nghĩa là đạt tới mức 100% (Ðương nhiên thực tế không đơn sơ như vậy). Lúc ấy tôi có thể nói như Phaolô: «Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là Ðức Kitô sống trong tôi» (Gl 10,20). Lúc ấy, một cách nào đấy, tôi không còn là tôilà Ðức Kitô

Ðiều đó không có nghĩa là tôi bị vong thân, mà tôi trở nên một cái tôi hoàn hảo nhất, đúng với ước muốn sâu xa nhất của tôi là nên một con người hoàn hảo. Chính lúc ấy tôi mới tìm lại được bản thân tôi một cách trọn vẹn nhất. Ðấy là cách ăn thịt uống máu Đức Giêsu mà tôi nghĩ theo thiển ý mình là hợp lý và ý nghĩa nhất. Và đó cũng là cách bảo đảm nhất để có sự sống đời đời

Vậy thiết tưởng, mỗi khi dâng thánh lễ và lãnh nhận Thánh Thể, tức là ăn thịt uống máu Ngài một cách bí tích, ta cần có một thái độ hay hành vi nội tâm tương xứng là ăn thịt uống máu Ngài một cách huyền nhiệm hay tâm linh như đã nói trên. Có sự phối hợp bên trong lẫn bên ngoài như thế, việc lãnh nhận Thánh Thể sẽ đem lại cho ta sự sống và sức mạnh tâm linh bội phần.



4.  Hãy trở nên chiếc bánh bị ăn như Ðức Giêsu

Như vậy, ăn thịt và uống máu Ðức Giêsu chính là suy niệm Lời và đời sống của Ngài để dần dần thay thế «chất tôi» bằng «chất Ngài», biến tôi thành Ngài. Nói cách khác, đó là trở nên giống Ðức Giêsu hoàn toàn. Giống Ðức Giêsu là giống Thiên Chúa, mà Thiên Chúa là Tình Yêu (1Ga 4,8.16). Tình yêu ở đây là thứ tình yêu hoàn toàn vị tha, không một chút vị kỷ. Vì thế, giống Ðức Giêsu là biết yêu thương mọi người bằng một tình yêu vị tha, nghĩa là sẵn sàng trở nên chiếc bánh bị ăn như Ðức Giêsu (theo cách nói của cha Antoine Chevrier, tu hội Prado). Bị ăn bởi những người chung quanh ta, nhất là những người gần gũi ta nhất (vợ chồng, con cái, cha mẹ, anh chị em, bạn bè ta). Sống như thế, hay ít nhất là cố gắng hết sức để sống như thế, chính là ăn thịt và uống máu Ðức Giêsu, và như thế thì chắc chắn ta sẽ được sự sống đời đời.




CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, con muốn ăn thịt và uống máu Ðức Giêsu bằng cách mỗi ngày nhìn vào đời sống của Ngài biến một phần rất nhỏ «chất tôi» trong con thành «chất Giêsu». Nếu mỗi ngày con chỉ biến một phần ngàn «chất tôi» thành «chất Giêsu» một cách thật nghiêm túc và thành công, thì trên nguyên tắc chỉ 1.000 ngày sau  tức khoảng 3 năm  con đã được biến đổi hoàn toàn nên giống Ðức Giêsu. Ðó là tính theo kiểu toán học, thực tế không đơn sơ, dễ dàng và nhanh chóng như vậy. Xin cho con biết ăn thịt và uống máu Ngài theo kiểu ấy, để nhờ đó con có sự sống đời đời.

Nguyễn Chính Kết




Monday, June 1, 2020

BaNgoi1 - Chỉ vì yêu thương con người mà Thiên Chúa cũng phải đau khổ



CHIA SẺ TIN MỪNG

Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi

(07-06-2020)

Chỉ vì yêu thương con người
mà Thiên Chúa cũng phải đau khổ 



ĐỌC LỜI CHÚA

  Xh 34,4b-6.8-9: (6) Thiên Chúa phán: Ta là Chúa Hằng Hữu, là Thượng Ðế có lòng thương xót, từ ái, chậm giận, đầy bác ái và chân thành. (7) Ta giữ lòng bác ái hàng ngàn đời, tha thứ sự bất chính, vi phạm và tội lỗi; nhưng không để kẻ phạm tội thoát hình phạt, và phạt con cháu họ đến ba bốn đời vì tội cha ông.

  2Cr 13,11-13: (11) Anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em.


  TIN MỪNG: Ga 3,16-18

Thiên Chúa yêu thương thế gian

[Ðức Giêsu nói với ông Nicôđêmô:] (16) Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời.  (17) Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.  (18) Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.




CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1.   Ðể cứu chuộc con người, Thiên Chúa chỉ cần phán một lời, thì tội lỗi con người được tha hết. Tại sao Ngài phải cho Con Một của Ngài xuống trần chịu đau khổ làm chi cho phức tạp và khổ lụy như thế? 
2.   Theo sự công bằng vô biên của Thiên Chúa, thì tội lỗi của con người đáng phạt thế nào? Ngài có phạt con người đúng theo sự công bằng của Ngài đòi hỏi không? Tại sao?


Suy tư gợi ý:

Thánh Gioan thuật lại lời của Đức Giêsu nói với ông Nicôđêmô: «Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một (...) Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian (…) để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ» (Ga 3,16-17). Ðể cứu chuộc con người, tại sao Thiên Chúa lại phải hành động một cách nhiêu khê là phải sai Con Một mình xuống thế, chịu đau khổ và chết nhục nhã trên thập giá? Ngài là Thiên Chúa quyền năng vô biên, trên nguyên tắc, Ngài chỉ cần phán một lời, thì tội lỗi con người dù to như núi lớn như biển cũng được tha hết, tại sao Ngài không làm như thế? 

Muốn hiểu được điều ấy ta phải hiểu được tội lỗi của con người lớn lao thế nào, đồng thời hiểu được sự xung đột kỳ diệu giữa hai thuộc tính công bằng và yêu thương của Thiên Chúa trước tình trạng tội lỗi ấy của con người.


1.  Tội lỗi con người

Muốn hiểu được tội lỗi con người, ta thử làm một so sánh. Khi nói một câu xúc phạm đến người bạn ngang hàng với ta, ta chỉ bị người bạn của ta buồn giận, và ta thấy tầm mức của lầm lỗi ấy không đến nỗi quan trọng lắm. Nếu ta xúc phạm đến một người dưới quyền ta, lỗi ấy lại càng nhỏ hơn. Nhưng nếu cũng câu xúc phạm ấy ta nói với cha mẹ ta, thì tội ta nghiêm trọng hơn rất nhiều, ta bị buộc tội bất kính hay bất hiếu với cha mẹ. Nếu cũng câu xúc phạm ấy ta nói với một ông vua, thì ta mắc tội khi quân là một trọng tội, nếu không bị bay đầu thì cũng phải tù tội. Như vậy, phẩm giá người bị xúc phạm càng cao, thì tội xúc phạm ấy càng lớn, cho dù hành động xúc phạm ấy hoàn toàn giống in hệt nhau. 

Phẩm giá của Thiên Chúa, là Chúa tể vũ trụ, cao hơn ông vua hàng tỷ lần (tạm diễn tả như vậy cho dễ hiểu), nên tội xúc phạm đến Ngài cũng lớn hơn lên hàng tỷ lần. Thế mà tổ tông loài người đã xúc phạm đến chính Ngài.

Một minh họa khác tuy què quặt nhưng giúp ta hiểu được phần nào sự di truyền của tội tổ tông. 

Một ông phù thủy quyền năng kia có một con chó mà ông hết mực yêu thương. Một hôm, khi tình yêu dâng lên dào dạt, ông đã tận dụng quyền năng của mình biến nó thành một người như ông, đồng thời nhận nó làm con. Thế là từ đấy con chó ‒giờ đã thành người‒ có thể suy nghĩ, nói năng như con người, tuổi thọ cũng dài như con người, có khả năng làm được tất cả những gì mà một con người có thể làm được. Thật là một thay đổi và thăng tiến vĩ đại! Ông phù thủy còn dự tính sẽ truyền đầy đủ những bí quyết phù thủy cho nó, để nó cũng có tài năng biến hóa như ông, và khi ông sang bên kia thế giới, toàn bộ sản nghiệp vĩ đại của ông sẽ để lại cho nó. Và con cháu do nó sinh ra cũng đều là người và cũng sẽ được kế thừa nghề phù thủy và sản nghiệp của ông.

Nhưng một hôm vì say rượu nó đã nói những lời xúc phạm đến ông, thậm chí còn đả thương ông. Vì thế, trong cơn giận dữ, ông đã biến nó trở lại thành chó. Thế là chó lại hoàn chó! Nó không còn nói được tiếng người, không còn làm được những việc mà chỉ con người mới làm được! Không còn sống đến 7, 8 chục tuổi như con người. Không còn được ngồi bàn ăn uống như người, mà phải ăn uống theo kiểu chó, v.v... Khả năng trở nên một thầy phù thủy hoàn toàn mất. Và tệ hại nhất là con cháu của nó, từ thế hệ này sang thế hệ khác, cũng chỉ là chó và mãi mãi là chó!


Cũng vậy, con người đã được Thiên Chúa dựng nên làm người ở bậc tự nhiên như bao thú vật khác, có điều cao hơn thú vật một chút. Nhưng không chỉ có thế, vì yêu thương con người một cách đặc biệt, Thiên Chúa đã nâng con người lên bậc siêu nhiên để trở thành con cái Ngài, có đầy đủ những khả năng tương xứng với phẩm giá ấy. Các nhà thần học gọi bản chất được nâng cao thành con cái Thiên Chúa với quyền thừa hưởng hạnh phúc vĩnh cửu là ơn siêu nhiên, và gọi khả năng được nâng cao như không phải chết, không phải đau khổ, hạnh phúc hơn, hướng thiện hơn, khôn ngoan hơn, v.v. là những ơn ngoại nhiên

Nhưng tổ tông con người đã phạm tội làm mất tất cả những ơn đặc biệt ấy ‒cả siêu nhiên lẫn ngoại nhiên‒ để trở lại thành con người hoàn toàn ở bậc tự nhiên. Các thế hệ sau của con người cũng không hơn gì tổ tông mình. Và vì tội lỗi ấy, con người phải đau khổ và chết, phần xác cũng như phần hồn.



2.  Sự xung đột giữa công bằng và yêu thương nơi Thiên Chúa

Tôi xin trình bày khái lược và tổng hợp cách lý giải vấn đề đặt ra ở trên của ba nhà thần học Tin Lành: Martin Luther (vị sáng lập đạo Tin Lành, người Ðức), J. Moltmann (người Ðức)Kazo Kitamori (giáo sư chủng viện, người Nhật) để chúng ta cùng suy niệm.

Thiên Chúa của chúng ta là một Thiên Chúa vừa công bằng vừa yêu thương. Vì là Thiên Chúa vô hạn và tuyệt đối, nên sự công bằng và yêu thương của Ngài cũng vô hạn. Công bằng và yêu thương là bản chất của Ngài, Ngài không bao giờ hành động ngược lại bản chất của Ngài, vì như vậy là tự phản lại chính mình. 

Chính vì bản chất hai mặt ấy mà Thiên Chúa trở nên khó xử. 

●  Một đằng sự công bằng đòi buộc Ngài phải phán xử tội lỗi của con người một cách hợp lý. Nếu thế thì con người phải chịu hình phạt tương xứng với tội lỗi mình. Con người hữu hạn nên tội của con người là hữu hạn. Nhưng Thiên Chúa là vô hạn, nên tội xúc phạm đến Thiên Chúa lại là vô hạn. Tội của con người đối với Thiên Chúa vì thế có hai mặt: vừa hữu hạn (vì bản tính người là hữu hạn) lại vừa vô hạn (vì phạm đến Thiên Chúa là Đấng vô hạn). Tội hữu hạn thì hình phạt phải hữu hạn, tội vô hạn thì hình phạt cũng phải vô hạn. Hình phạt của con người vì thế cũng có hai mặt: vừa hữu hạn vừa vô hạn. Dù thế nào thì con người cũng bị phạt rất nặng, nên phải thiệt hại vô cùng và đau khổ rất nhiều.

●  Đằng khác, Thiên Chúa không phải chỉ là một Thiên Chúa công bằng, mà còn là một Thiên Chúa đầy yêu thương. Tình thương vô hạn của Ngài không thể chấp nhận để cho con người phải vĩnh viễn đau khổ vì chính sự công bằng của Ngài. Tình thương ấy đòi hỏi Ngài phải cứu con người cho bằng được

Nhưng thật vô cùng khó vì phải cứu thế nào để vẫn thỏa mãn được sự công bằng của Ngài. Lúc này Thiên Chúa duy nhất dường như bị xẻ thành hai: một Thiên Chúa công bằng đòi hỏi phải xử phạt con người một cách xứng đáng, và một Thiên Chúa yêu thương đòi hỏi phải cứu con người với bất cứ giá nào. Trước sự đòi hỏi gắt gao của bản tính vừa công bằng vừa yêu thương ấy, trong nội tâm Thiên Chúa có sự xung đột vì con người. Ðó chính là nỗi đau khổ của Ngài, tạm dùng từ như thế. Thiên Chúa vô cùng hạnh phúc bây giờ trở nên đau khổ vì con người. Vì là Thiên Chúa, nên đau khổ ấy cũng là vô cùng.

Sự đau khổ vô cùng ấy của Thiên Chúa được biểu lộ qua sự đau khổ cùng tột và cái chết thê thảm của Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa.



3.  Giải pháp cứu con người: Ðức Giêsu đau khổ và chết

Vẫn theo quan điểm của ba nhà thần học trên, muốn cứu con người, thì trong số con người phải có một người có địa vị xứng đáng có khả năng đại diện cho con người để đền tội thay cho cả loài người. Vì tội ấy xúc phạm đến Thiên Chúa rất cao cả, nên để đền tội cho cân xứng theo sự đòi hỏi của lẽ công bằng, người đại diện cho loài người cũng phải cao cả ở một tầm vóc nào đó xứng với sự cao cả của Thiên Chúa. Nếu không thì người ấy chỉ có thể đền tội tối đa cho một mình mình thôi, không đền thay cho cả nhân loại được. 

Thật là nan giải! Làm sao trong hàng ngũ con người tội lỗi đang bị thất sủng trước Thiên Chúa có thể có được một con người như thế? Con người chắc chắn không thể làm nổi, nhưng Thiên Chúa quyền năng vô biên chắc chắn có thể. Do tình thương vô biên đối với con người thúc đẩy, đồng thời nhờ sự khôn ngoan và quyền năng vô hạn của mình, Thiên Chúa đã thực hiện một sáng kiến tuyệt vờicho Ngôi Hai nhập thể làm người để làm công việc đền tội ấy.

Khi nhập thể làm người, Ngôi Hai Thiên Chúa trở thành Ðức Giêsu, một con người thật sự. Nhưng con người này lại hết sức cao cả, cao cả ngang hàng với Thiên Chúa, vì đó chính là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa. Vì thế, Ngài rất xứng đáng để đền tội thay cho cả nhân loại trước mặt Thiên Chúa. Và để đền một cách thật cân xứng với cái tội vô cùng to lớn của nhân loại ‒cả tội tổ tông được di truyền và vô số tội riêng của toàn thể loài người‒ Ðức Giêsu đã tự nguyện chịu biết bao đau khổ ở trần gian, và cuối cùng chết vô cùng nhục nhã và thê thảm trên thập giá. 

Công trình nghiên cứu đầy tính khoa học về tấm khăn liệm xác Ðức Giêsu của bác sĩ giải phẫu học Pierre Barbet cho thấy sự đau khổ mà Ðức Giêsu phải chịu là cùng tột và khủng khiếp như thế nào. 

Nhưng chính qua sự đau khổ và sự chết ấy, cả sự công bằng lẫn tình thương vô biên của Thiên Chúa đối với con người được hoàn toàn thoả mãn. Thật là một giải quyết tài tình, qua đấy ta thấy được sự công bằng và tình yêu thương của Thiên Chúa, đồng thời thấy được tội lỗi của ta trước con mắt của Thiên Chúa lớn lao như thế nào.



CẦU NGUYỆN

Lạy Cha là Thiên Chúa của con, bây giờ con mới hiểu sâu sắc câu nói của Thánh Gioan: «Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho họ» (Ga 3,16). Thì ra sự công bằng vô biên của Cha không cho phép Cha làm một cái gì đơn giản hơn để cứu chuộc nhân loại. Và bây giờ con mới hiểu được tình Cha yêu thương nhân loại, trong đó có con, như thế nào! Xin cho con biết sống xứng đáng với tình yêu ấy! Cho con biết đáp lại tình yêu vô biên ấy bằng trọn tình yêu của con. Amen.

Nguyễn Chính Kết