Monday, January 30, 2017

TN5b − Người Kitô hữu có làm cho môi trường mình đang sống trở nên tốt hơn không?


CHIA SẺ TIN MỪNG


Chúa Nhật thứ 5 Mùa Thường Niên
(5-2-2017)

Bài 2


Người Kitô hữu có làm cho môi trường mình đang sống trở nên tốt hơn không?


ĐỌC LỜI CHÚA

  Is 58,7-10: (9) Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, (10) nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối.

  1Cr 2,1-5: (1) Khi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. (4) Chẳng dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa.

  TIN MỪNG: Mt 5,13-16

Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian


(13) «Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.  (14) «Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. (15) Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. (16) Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời». 


CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1. Muối dùng để làm gì? Câu trở nên muối cho đời nghĩa là gì? 
2. Nói cụ thể, ta có thể trở nên muối cho đời bằng cách nào? 
3. Ta có thể theo một tôn giáo đang khi tín đồ tôn giáo ấy chẳng tốt gì hơn ta không? chẳng hạnh phúc hơn ta không? Tôn giáo ấy có hấp dẫn ta không?

Suy tư gợi ý:

1.   Công dụng của muối và nhiệm vụ của người Kitô hữu

Muối dùng để ướp thức ăn, giữ thức ăn khỏi hư thối, đồng thời thêm vị ngon cho nó. Ðức Giêsu đã dùng hình ảnh này để nói lên sứ mạng của người Kitô hữu đối với môi trường xã hội mình đang sống. Thật vậy, Ðức Giêsu đã lập Giáo Hội - gồm những người Kitô hữu - như một dấu chỉ của Nước Trời, như một cầu nối giữa nhân loại với Thiên Chúa, như một lời chứng cho Ngài trước mọi người. Giáo Hội - hay người Kitô hữu - có vai trò như muối đối với thế giới. Nếu muối dùng để ướp thức ăn, giữ thức ăn khỏi hư và thêm vị ngon cho nó, thì Thiên Chúa muốn dùng người Kitô hữu để giữ cho thế giới, xã hội không bị hư hỏng, mà trở nên tốt đẹp, hạnh phúc hơn trước mặt Thiên Chúa.

Thức ăn bị nhiều yếu tố bên trong lẫn bên ngoài làm cho hư thối. Xã hội con người cũng bị những yếu tố nội tại lẫn ngoại tại làm cho hư hỏng, tồi tệ, và trở nên đau khổ. Vì thế, khi Ðức Giêsu nói: Chính anh em là muối cho đời, thì một cách nào đó, Ngài muốn giao cho chúng ta, những Kitô hữu hay môn đệ Ngài, một nhiệm vụ rất quan trọng đối với môi trường xã hội mình đang sống. Ðó là: phải làm sao giữ cho môi trường ấy không bị hư hỏng và đau khổ bởi gương xấu, bất công, hận thù, bạo lực, mà trở nên tốt đẹp hạnh phúc hơn nhờ gương sáng, sự thực thi công lý, tình thương của chính chúng ta. Người Kitô hữu cần ý thức nhiệm vụ ấy.

2. Trở nên muối cho đời bằng cách nào?

Nhưng chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ ấy như thế nào? Làm sao chúng ta có thể giữ cho thế giới đừng hư hỏng mà trở nên tốt đẹp hơn? Ðức Giêsu đề nghị với chúng ta một phương cách cũng lại bằng một ẩn dụ: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian.

Mọi người ai cũng cần ánh sáng để nhìn thấy, để biết lối đi hầu khỏi té ngã, để biết đường mà làm công nọ việc kia. Về mặt tâm linh, người ta cũng cần có những gương sáng để họ theo đó mà hành xử cho đúng, cho khôn ngoan, cho tốt đẹp trong mọi trường hợp. Nhưng gương sáng đó họ tìm nơi đâu? − Khi nói: Chính anh em là ánh sáng cho trần gian, Ðức Giêsu đã giao phó cho chúng ta nhiệm vụ làm gương sáng cho mọi người chung quanh, trong môi trường mình sống. Và khi làm gương sáng như thế, chúng ta đã trở nên muối cho đời.

3. Bạn có làm gương sáng trong môi trường mình sống không?

Tình hình xã hội hiện nay có nhiều điều đáng bi quan: bất công, bạo lực và nhiều thứ tệ nạn xã hội đang lan tràn, mạng sống con người bị coi thường (nhất là của thai nhi), tình dục bị lạm dụng, bảng giá trị Kitô giáo bị đảo lộn (nhiều người, kể cả Kitô hữu, coi trọng tiền bạc, địa vị hơn tình nghĩa), v.v. Nói chung, thế giới đang bị hư hỏng, trở nên tội lỗi, từ trong gia đình ra đến ngoài xã hội. Vì thế, bất kỳ người Kitô hữu nào cũng cần ý thức lại nhiệm vụ làm muối cho đời, làm ánh sáng cho trần gian mà Ðức Giêsu đã giao cho chúng ta. Nhưng thử hỏi, người Kitô hữu - cụ thể là chính bạn, chính tôi - đã ý thức và cố gắng thực hiện nhiệm vụ ấy trong cuộc đời mình chưa?

Thực tế đang trả lời cho chúng ta. Giáo Hội lúc nào cũng nỗ lực truyền giáo, bỏ ra biết bao nhiêu nhân lực và tài lực vào công việc này. Nhưng. hiện nay, dân số Kitô giáo trên thế giới tuy có tăng theo đà tăng của dân số thế giới, nhưng tỷ lệ người Kitô hữu đang càng ngày càng giảm khoảng từ 50 năm nay, nhất là tại Âu châu. Tại châu Âu, nơi trước đây số Kitô hữu đã lên tới 70%, thì nay tỷ lệ người Kitô hữu thực hành đạo thật sự (pratiquants, church-goers) chỉ còn chưa tới 5% (tôi đã gặp nhiều người Âu châu cho biết là chỉ được từ 2 đến 3%). Nhiều nơi, số Kitô hữu gia tăng chủ yếu là do trẻ con vừa lọt lòng mẹ thì đã thành Kitô hữu do được rửa tội sớm, và số người lớn trở lại Kitô giáo chủ yếu là do việc kết hôn với người Kitô hữu đòi buộc. Số người giác ngộ Kitô giáo để tự nguyện theo thì rất ít. Thực trạng đó quả không đáng tự hào chút nào!

Ðiều ấy đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ để tìm ra nguyên nhân: chúng ta đã sống đạo thế nào? Tôi nghĩ: mọi nỗ lực truyền giáo đều là vô ích, nếu chính người Kitô hữu chỉ giữ đạo một cách hình thức, không sống đạo thật sự, nghĩa là chỉ biết đến nhà thờ dự lễ, năng lãnh nhận các bí tích, chứ thật sự không áp dụng tinh thần Ðức Kitô vào trong đời sống của mình. Nhiều người nhận xét: Trong số những người "yêu Chúa" thì số người "yêu đồng loại" còn rất khiêm nhường. Đó chính là lý do khiến đạo Chúa không phát triển bao nhiêu từ nhiều thế kỷ qua.

4. Phải chăng cách sống của ta là một phản chứng?

Ta hãy nghe Mahatma Gandhi - được dân Ấn Ðộ xem là một vị thánh - nói về cách sống đạo của những Kitô hữu trong xã hội của ông. Ông đã lên tiếng, có vẻ như thách thức người Kitô hữu, cụ thể là những người Anh đô hộ dân tộc ông: Nếu những người Kitô hữu ở Ấn độ thật sự sống đúng tinh thần của Ðức Kitô, thì họ chẳng cần phải mất công rao giảng, toàn Ấn độ sẽ trở thành Kitô hữu hết. Trước mắt ông, người Kitô hữu - cụ thể là người Anh lúc ấy đang đô hộ dân tộc ông - cũng tham lam, bất công và tàn bạo không kém gì những kẻ xâm lăng khác. Ông rất say mê Ðức Kitô, nhưng ông không thể trở nên Kitô hữu, vì những người đem Kitô giáo đến với dân tộc ông - người Anh - lại chính là những người đang nô lệ hóa dân tộc ông, đàn áp dân tộc ông một cách dã man. Ông không thể tin rằng dân Ấn Ðộ hiền lành của ông cứ phải gia nhập cái đạo của những người đang quàng ách nô lệ lên dân tộc ông thì mới được cứu rỗi. Nếu những kẻ nô lệ hóa dân tộc ông một cách bỉ ổi mà được Thượng Ðế thưởng công chỉ vì họ là người Kitô hữu, đang khi dân tộc hiền hòa của ông lại bị phạt chỉ vì không phải là Kitô hữu, thì một vị Thượng Ðế như thế không thể chấp nhận được!

Cũng vậy, biết bao người như Gandhi rất mộ mến Ðức Giêsu, nhưng cứ nhìn thấy cách sống của những người Kitô hữu chung quanh họ, là họ cảm thấy chẳng cần phải vào Kitô giáo làm gì. Vì người Kitô hữu nói chung cũng chẳng hơn gì họ: cũng ích kỷ, cũng ăn gian nói dối, cũng gây bất công, cũng lặng im trước bất công, cũng sống chẳng có tình nghĩa bao nhiêu. Làm sao họ có thể tin được những người chẳng tốt hơn họ, đôi khi kém họ lại được Thiên Chúa ân thưởng chỉ vì là Kitô hữu, còn họ cũng sống như vậy thậm chí tốt hơn thì lại bị phạt. Chẳng lẽ chúng ta lại giới thiệu với họ một Thiên Chúa bất công và vô lý như vậy qua cách sống của chúng ta?

5. Truyền giáo bằng chính đời sống phù hợp với Tin Mừng

Nếu đời sống của ta ngược lại với Tin Mừng, làm sao ta có thể làm muối cho đời để đời khỏi hư hỏng được? làm sao ta có thể làm cho đời tốt đẹp lên được? Muối như thế là muối đã lạt. Muối có giá trị hay không là ở vị mặn của nó. Nếu muối lạt thì còn giá trị gì, còn làm được việc gì? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi!

Người ta - nhất là Ðức Giêsu - có thể kết luận gì về chất muối tâm linh của ta? Hãy tự xét mình xem chất muối của ta có còn vị mặn không? có còn tác dụng ướp nữa không? Xét một cách cụ thể hơn: sự hiện diện của tôi trong gia đình, trong tổ dân phố, trong xứ đạo, trong xã hội, trong nơi ta làm việc. có làm ánh sáng dẫn đường cho môi trường ấy tốt hơn không? Những vùng đông người Kitô hữu có trật tự xã hội và mức phát triển về mọi mặt − nhất là mặt đạo đức − cao hơn những vùng khác không? Sự hiện diện của một ngôi giáo đường có đích thực là một sự chúc lành cho vùng chung quanh không? nghĩa là có làm cho dân chúng vùng chung quanh trở nên tốt hơn, trật tự hơn, hạnh phúc hơn không?

Theo quan niệm của Gandhi, để toàn dân Ấn Ðộ trở thành Kitô hữu, không cần phải đổ công đổ của ra mà truyền giáo cho bằng chỉ cần người Kitô hữu sống đích thực tinh thần của Ðức Giêsu là đủ. Sống như thế chính là trở nên ánh sáng cho trần gian. Thật mỉa mai khi muối đã lạt lại còn muốn ướp cái này cái nọ, ích lợi gì? Và mỉa mai hơn nếu đạo mình mình không thèm sống lại còn muốn đem đạo ấy truyền cho người khác, để làm gì?! Vừa truyền giáo, vừa sống phản lại Tin Mừng thì chẳng khác gì trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Thật mỉa mai khi chính mình tối om lại muốn làm ánh sáng dẫn đường cho người khác! Thật ngược đời khi chính mình đói meo lại đi lo chuyện làm no ấm thiên hạ!


CẦU NGUYỆN

Tôi nghe tiếng Chúa nói với tôi: Qua Ðức Giêsu, Cha đã mời gọi con và trao cho con nhiệm vụ: hãy trở nên "muối cho đời" và "ánh sáng cho trần gian". Ðể làm được chuyện ấy, con phải là muối thật mặn, phải là đèn thật sáng. Muốn thế, con phải quyết tâm trở nên như thế. Ðiều quan trọng là chính con phải quyết tâm trước, rồi Cha sẽ ban ơn trợ giúp sau. Con không quyết tâm thì Cha có đổ tràn thần lực xuống cho con cũng vô ích. Cha đành phải bó tay nếu chính con từ chối lời mời gọi của Cha hay chính con không quyết tâm thực hiện. Vì Cha luôn luôn tôn trọng tự do của con. Một lần nữa, Cha mời gọi con hãy trở nên "muối cho đời" và "ánh sáng cho trần gian". Cha rất mong con đáp trả bằng một quyết tâm thật sự.

_________________________

Theo thống kê của Tòa Thánh năm 2016, thì số người Công giáo (tức những người có rửa tội) là 1 tỷ 270 triệu người, tức 17,8% dân số toàn cầu (7 tỷ 135 triệu người).


TN5a − Giáo Hội và Kitô hữu phải là muối ướp, là đèn sáng cho thế giới


CHIA SẺ TIN MỪNG


Chúa Nhật thứ 5 Mùa Thường Niên
(5-2-2017)

Bài 1


Giáo Hội và Kitô hữu phải là muối ướp,
là đèn sáng cho thế giới


ĐỌC LỜI CHÚA

  Is 58,7-10: (9) Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, (10) nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối.

  1Cr 2,1-5: (1) Khi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. (4) Chẳng dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa.

  TIN MỪNG: Mt 5,13-16

Muối cho đời và ánh sáng cho trần gian


(13) «Chính anh em là muối cho đời. Nhưng muối mà nhạt đi, thì lấy gì muối nó cho mặn lại? Nó đã thành vô dụng, thì chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi.  (14) «Chính anh em là ánh sáng cho trần gian. Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. (15) Cũng chẳng có ai thắp đèn rồi lại để dưới cái thùng, nhưng đặt trên đế, và đèn soi chiếu cho mọi người trong nhà. (16) Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời». 


CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:
1.   Thiên Chúa mong đợi gì nơi Giáo Hội, nơi mỗi người chúng ta? Giáo Hội và mỗi người chúng ta đã đáp ứng sự mong đợi của Ngài thế nào? 
2.   Giáo Hội có phải là gương mẫu cho thế giới noi theo không? Mỗi người chúng ta có phải là gương sáng trong môi trường mình sống không?

Suy tư gợi ý:

1.   Vật hư không sử dụng được thì chỉ có nước vứt bỏ

Một vật bị hư, không sử dụng được nữa – chẳng hạn cái quạt máy không quay nữa, cây viết không ra mực nữa – thì chỉ có nước đem sửa. Nếu sửa không được thì đành phải vứt vào thùng rác. Khi còn sử dụng vật nào thì ta lo bảo vệ, chăm chút cho nó, khi đã bỏ vào thùng rác rồi thì ta mặc kệ nó, ai đốt, ai phá hủy, ai làm gì nó ta cũng chẳng quan tâm. Đó là chuyện tự nhiên và hợp lý. Còn Thiên Chúa, Ngài hành xử ra sao đối với những thứ vô dụng, bị mất bản chất, không còn sử dụng được nữa?

– Trong «bài ca vườn nho», Isaia (5,1-7) kể chuyện: Bạn ông «có một vườn nho trên sườn đồi màu mỡ». Anh bỏ ra rất nhiều công lao và tiền bạc đầu tư cho nó, «những mong nó sinh trái tốt». Anh nói: «Có gì làm hơn được cho vườn nho của tôi, mà tôi đã chẳng làm?» Nhưng khốn thay «nó lại sinh toàn nho dại». Tìm hết cách mà vẫn không kết quả gì khá hơn. Vậy thì anh phải làm gì với vườn nho ấy? Anh đã không thèm đoái hoài gì tới nó nữa, mặc cho «bờ tường bị đập đổ», «vườn bị giày xéo», «thửa vườn thành mảnh đất hoang vu», «gai góc mọc um tùm». – Isaia kết luận: «Vườn nho Chúa chăm sóc ấy chính là nhà Ítraen; cây nho Chúa quý chuộng ấy chính là người Do Thái. Người những mong họ sống công bình, mà chỉ thấy toàn là đổ máu; đợi chờ họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe vẳng tiếng khóc than» (Is 5,7).

– Tin Mừng Mátthêu 21,18-19 thuật lại chuyện Đức Giêsu rủa cây vả không ra trái khiến nó bị khô héo ngay. Đang mùa vả mà vả chỉ có cành lá xum xuê chứ không có trái, đánh lừa khách lỡ đường bị đói, thì cây vả ấy đáng bị đốn bỏ. Gioan Tẩy Giả cũng nói: «Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa» (Mt 2,10).

– Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cũng chủ trương: «Muối mà nhạt đi, thì (…) thành vô dụng, chỉ còn việc quăng ra ngoài cho người ta chà đạp thôi» (Mt 5,13). Cũng vậy, đèn hư, không sáng được, thì chỉ còn nước vứt vào sọt rác.

2.   Thiên Chúa mong Giáo Hội là muối ướp, là đèn soi trần gian

Trần gian đầy dẫy đau khổ vì con người quá tội lỗi. Tội lỗi chính là xa rời Thiên Chúa, sống ngược với bản tính Thiên Chúa là tình yêu, với bản chất của mình là «hình ảnh của Thiên Chúa». Sống ngược với bản chất của mình nghĩa là sống thiếu tình thương, không tôn trọng sự công bằng. Vì thế, con người thường xuyên phải sống trong bất công, áp bức, bóc lột, ghen ghét, hận thù, từ trong môi trường nhỏ nhất là gia đình cho đến quốc gia, xã hội, và lớn nhất là thế giới. Do đó con người phải chịu đựng biết bao đau khổ: «Đời người là biển khổ», «nước mắt của chúng sinh bao nhiêu thế hệ cộng lại còn nhiều hơn nước sông Hằng» (Lời Đức Phật).

Để cứu trần gian khỏi đau khổ, một trong những mục đích của Đức Giêsu khi đến trần gian là khai mạc Nước Thiên Chúa tại đây. Và Nước Thiên Chúa – hay Nước Trời – là từ trong Tin Mừng để chỉ một xã hội toàn hảo, trong đó tất cả mọi người đều được hạnh phúc, vì mọi người đều đối xử với nhau bằng tình thương, một cách cụ thể và thực tế. Nhờ tình thương, xã hội không còn tranh chấp, hận thù, mọi người đều sống an vui, từ trong tâm hồn ra đến ngoài xã hội.

Đức Giêsu lập nên Giáo Hội những mong Giáo Hội dần dần trở thành Nước Thiên Chúa ở trần gian, thành cánh tay hữu hình và nối dài của Ngài để giáo hóa, thánh hóa, cứu chuộc, phục vụ cho bình an và hạnh phúc của nhân loại. Ngài mong Giáo Hội là nhịp cầu nối con người với Thiên Chúa, mong Giáo Hội thành một xã hội gương mẫu để mọi xã hội trên trần gian bắt chước. Và để thực hiện cụ thể mong ước ấy, Thiên Chúa đã kêu gọi một số người trong nhân loại trở thành Kitô hữu, gia nhập Giáo Hội, để họ thành gương sáng cho mọi người noi theo, để tích cực biến trần gian thành Nước Thiên Chúa.

3.   Giáo Hội phải là một thể chế gương mẫu cho mọi xã hội

Giáo Hội thời sơ khai quả một xã hội lý tưởng, rất phù hợp với mô hình Nước Thiên Chúa, trong đó các Kitô hữu đều yêu thương nhau, chia sẻ với nhau một cách rất cụ thể. Trong khi các xã hội thời ấy đều theo thể chế quân chủ và phong kiến, thì Giáo Hội đã là một xã hội rất dân chủ và rất tiến bộ. Chẳng hạn, theo sách Công Vụ (Cv 1,15-25), để chọn vị tông đồ thay thế Giuđa đã thắt cổ tự tử, thánh Phêrô, thủ lãnh Giáo Hội thời ấy không hề tự mình quyết định việc này, mà yêu cầu 120 Kitô hữu có mặt hôm đó đề cử 2 người rồi bỏ phiếu bầu một trong 2 người ấy. Và Matthia đã được chọn làm tông đồ thứ 12 thay thế Giuđa. Cho đến thế kỷ thứ 4, năm 347, thánh Ambrôsiô ngay khi còn là lương dân, đã được dân chúng bầu lên làm giám mục, về sau thành một vị thánh. Chỉ sau khi được bầu làm giám mục, ngài mới chịu phép rửa tội, được truyền chức linh mục và giám mục. Giáo Hội thời ấy cũng là một xã hội cộng sản lý tưởng nhất mà các xã hội cộng sản ở thế kỷ 20 phải thua xa một trời một vực. Sách Công vụ cho biết: : «Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ được toàn dân thương mến» (Cv 2,44.47).

Phải nói rằng về mặt thể chế, Giáo Hội thời sơ khai «tiến bộ» hơn hẳn các thể chế trần gian cùng thời rất nhiều, Giáo Hội thời ấy thật đáng làm gương cho mọi thể chế xã hội. Nhưng tiếc thay, phải 17 thế kỷ sau nhân loại mới có những quốc gia chập chững noi theo thể chế dân chủ của Giáo Hội Kitô giáo ban đầu. Thật vậy, mãi đến năm 1690 John Locke ở nước Anh, và năm 1748 Baron de Montesquieu ở Pháp mới viết được những tác phẩm giới thiệu cho nhân loại tinh thần dân chủ mà Giáo Hội thời sơ khai đã thực hiện trước đó cả 16 thế kỷ. Và đến năm 1917, thế giới mới xuất hiện thể chế cộng sản với lý tưởng rất cao vời nhưng trong thực tế chẳng thực hiện được. Thế mà lý tưởng ấy đã được thực hiện trong Giáo Hội sơ khai một cách rất tuyệt vời, đã thật sự đem lại hạnh phúc cho các thành viên Giáo Hội thời ấy.

Tiếc thay kể từ thế kỷ thứ 4 về sau, khi được tự do truyền đạo, Giáo Hội lại rập khuôn theo thể chế quân chủ của đế quốc Rôma, và vẫn tiếp tục cho đến nay. Trong khi đó, từ mấy thế kỷ nay, rất nhiều quốc gia trên thế giới đã từ bỏ thể chế ấy để bắt chước thể chế của Giáo Hội thời sơ khai, tuy rằng còn xa mới đạt được mức lý tưởng như Giáo Hội thuở ấy. Thiết tưởng chúng ta cũng cần tự hỏi: thể chế của Giáo Hội hiện nay có phải là một thể chế gương mẫu mà các nước trên thế giới muốn hoặc cần noi theo không?

4.   Giáo Hội và mỗi Kitô hữu phải là muối, là ánh sáng

Thiên Chúa đã thất vọng vì dân Do Thái – dân tộc được Ngài đặc biệt tuyển chọn để làm cầu nối giữa Ngài với nhân loại – đã không đáp ứng lại những điều Ngài mong muốn nơi họ. Vì thế, Thiên Chúa không còn chúc lành cho họ, khiến họ lâm vào nhiều tình huống khó khăn suốt 20 thế kỷ qua: mất nước, lưu lạc khắp nơi, bị Hitler tìm cách tiêu diệt thời thế chiến thứ hai, lập quốc trở lại năm 1947 thì sau đó là chiến tranh liên miên.

Để thay thế dân tộc Do Thái, cách đây 20 thế kỷ, Thiên Chúa đã lập một dân mới cho Ngài, đó là Giáo Hội, những mong Giáo Hội hoàn thành được sứ mạng Ngài giao phó là trở nên muối ướp và đèn soi cho nhân loại. Đến nay, sau 2000 năm thành lập, thử hỏi Giáo Hội có đáp ứng được sự mong đợi của Thiên Chúa chưa? Thiết tưởng đó phải là câu hỏi mà mỗi Kitô hữu – với tư cách là thành viên của Giáo Hội – đều phải tự đặt cho mình để ý thức trách nhiệm của mình trước sự mong đợi của Thiên Chúa nơi Giáo Hội.

Muốn Giáo Hội trở thành một thể chế gương mẫu cho thế giới noi theo, thì trước hết mọi thành viên của Giáo Hội phải trở nên gương mẫu cho những người chung quanh, phải tích cực hoạt động để môi trường mình đang sống tốt đẹp hơn, yêu thương nhau hơn. Cụ thể nhất là phải biến bản thân mình, rồi đến gia đình mình, giáo xứ mình thành Nước Thiên Chúa đã. Cha mẹ phải là gương sáng cho con cái, linh mục là gương sáng cho giáo dân, giám mục là gương sáng cho linh mục, bề trên là gương sáng cho bề dưới. Đó chính là trở nên muối cho đời, nên đèn sáng cho trần gian.

Muối của chúng ta sẽ lạt đi, đèn của chúng ta sẽ tối lại,

– khi chúng ta sống ích kỷ, không có tình yêu, khi chúng ta cũng đầy tham sân si, cũng ham danh lợi thú và cũng chẳng tốt lành gì hơn những người ngoài Kitô giáo;

– khi chúng ta sẵn sàng nhắm mắt làm ngơ trước các nhu cầu cấp bách và đau khổ của người khác (xem lại bài đọc 1: Is 58,7-10);

– khi chúng ta không dám bênh vực và làm chứng cho sự thật, sự thiện, công lý, và sẵn sàng im lặng để được an thân trước các bất công xã hội, để mặc những thế lực xấu tự do hoành hành;

– khi chúng ta chỉ biết cầu nguyện mà không cảm thấy phải hành động, chỉ biết thờ phượng Chúa mà không hề quan tâm đến đồng loại, hoặc ngược lại, chỉ biết hành động mà không cầu nguyện, chỉ biết quan tâm đến đồng loại mà không màng đến bổn phận đối với Thiên Chúa.


CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, hiện nay nhân loại đang rất cần những gương sáng cụ thể và sống động để noi theo hơn là những lý thuyết trừu tượng, cần những vị thánh hơn là những nhà thuyết giảng hùng hồn. Nhưng dường như Kitô hữu chúng con lại có khuynh hướng cung cấp cho thế giới theo chiều ngược lại. Xin giúp chúng con ý thức điều đó để sám hối, để trở thành men, muối và đèn sáng cho mọi người chung quanh.





Monday, January 23, 2017

Hãy tận dụng bản chất hay nguồn gốc cao quý của mình để nên thánh


Hãy tận dụng
bản chất hay nguồn gốc cao quý của mình
để nên thánh

(Chia sẻ về đoạn Tin Mừng Mt 13,44-46)[a*]

1. Mỗi người có một kho tàng quí giá ngay trong bản chất mình

Mỗi người, người nào cũng đều có một kho tàng hết sức quí báu ở ngay bản thân mình mà hầu như chẳng mấy ai biết hay nhận ra. Rất nhiều người đã nghe nói về kho tàng ấy, nhưng họ chẳng để ý, hay chẳng quan tâm, hoặc chẳng tin. Chính vì thế kho tàng trở thành bị dấu kín, không được dùng tới, nên chẳng đem lại lợi ích gì cho người có nó. Y như một người được cha ông mình để lại cho con cháu một hũ vàng lớn chôn ngay trong nhà. Sau thời loạn lạc anh ta trở về nhà và lâm vào cảnh túng thiếu. Anh ta có nghe nói về hũ vàng chôn trong nhà, nhưng không tin hoặc không quan tâm tới. Vì thế, anh ta vẫn thiếu thốn thậm chí suốt cả cuộc đời, và nhiều khi phải hạ mình ngửa tay xin xỏ hay mượn tiền người khác.

Kho tàng ấy chính là «cái mà con người là» (what I am), nó thuộc về bản chất, nội tại trong con người, chứ không phải là thứ ở ngoài con người hay «cái mà con người có» (what I have). Kho tàng ấy được Kinh Thánh mạc khải: Con người là «hình ảnh của Thiên Chúa», được dựng nên «giống Thiên Chúa» (St 1,26-27 [b*]; 9,6 [c]), là «con cái Thiên Chúa» (Lc 20,36 [d]; Ga 11,52 [e]; Rm 8,14.16.21 [f]; Gl 3,26 [g]; 1Ga 3,1.2.10 [h]), «được thông phần bản tính Thiên Chúa» (2Pr 1,4 [i*]). Nếu biết suy xét, ta thấy đó đúng là một kho tàng quí báu. Ý thức và xác tín những điều ấy, ta sẽ thấy phẩm giá của chúng ta hết sức cao quí. Phẩm giá ấy cao quí hơn tất cả những gì mà ta có thể có được ở trần gian. Với bản chất cao cả ấy như một chìa khóa, một bí quyết, một nền tảng cần thiết, con người có thể có tất cả, nhất là có hạnh phúc đích thực ở trần gian này, và hạnh phúc vĩnh cửu mà Thiên Chúa dành cho con cái Ngài.

2.       Cần khám phá ra kho tàng ấy

Chúng ta là «con cái Thiên Chúa», được tạo dựng nên «giống như Ngài». Thế nhưng hiện nay, chúng ta vẫn sống như thể mình không phải là như vậy, thậm chí không hề ý thức hay biết mình là như vậy. Chúng ta sống y hệt con sử nai trong dụ ngôn của Ấn Độ sau đây, cứ tưởng mình là nai, chứ không biết bản chất của mình là sư tử:

«Một con sư tử có thai sắp tới ngày sinh con. Hôm đó nó phải nhảy qua một con suối rộng. Vì quá ráng sức, nên khi nhảy qua được dòng suối, nó liền sinh ra một con sư tử con rồi chết. Sư tử con được một bầy nai đem về nuôi. Sư tử con lớn lên giữa bầy nai và sinh hoạt y như những con nai khác: cũng ăn cỏ, cũng kêu be be. Sư tử con càng ngày càng lớn, nhưng không hề biết bản chất đích thực của mình. Một hôm, một con sư tử khác trông thấy con sư tử nai cũng to như mình, nhưng lại hiền lành ăn cỏ giữa bầy nai, nó bèn chạy tới xem sao. Sư tử nai thấy sư tử thực tới thì cũng sợ hãi chạy bán sống bán chết như những con nai khác. Con sư tử thực bèn bắt cho bằng được con sư tử nai, và chỉ cho nó thấy rằng nó là sư tử chứ không phải nai. Con sư tử nai mới đầu hết sức ngạc nhiên, không thể tin được. Nhưng khi con sư tử thật cho nó nhìn thấy bóng mình dưới mặt hồ trong, tập cho nó ăn thịt uống máu những con thú khác, và tập cho nó gầm lên, dần dần nó mới hoàn toàn cảm thấy nó là sư tử. Từ lúc biết chắc chắn mình là sư tử, con sư tử nai bỗng nhiên cảm thấy như sức mạnh, sự oai vệ, hùng hổ của một con sư tử đến với mình. Thế là từ đó, nó là sư tử, nó không còn sống cái kiếp nai như trước nữa».

Qua câu chuyện trên, ta thấy: Một con nai thuần túy sẽ mãi mãi là nai, không bao giờ trở thành sư tử được. Tuy nhiên, con sư tử nai thì có thể trở thành sư tử thật, vì bản chất của nó vốn là sư tử. Nhưng nếu con sư tử nai cứ mãi tưởng mình là nai, không hề biết bản chất thật của mình là sư tử, thì nó sẽ mãi mãi là sư tử nai, không thể trở thành sư tử thật được. Nó chỉ trở thành sư tử thật sau khi biết mình là sư tử, đồng thời biết tập luyện để hành xử đúng như một con sư tử thật.

Tương tự, chúng ta không phải là một phàm nhân thuần túy. Vì một phàm nhân thuần túy không bao giờ trở nên con cái Thiên Chúa hay «nên hoàn thiện như Cha trên Trời» như Đức Giêsu từng khuyên ta trở nên như thế (x. Mt 5,48 [k*]). Tuy nhiên, chúng ta được Thiên Chúa dựng nên «giống Ngài», «theo hình ảnh của Ngài», «được thông phần bản tính của Ngài», nghĩa là tự bản chất chúng ta đã là thần, là thánh. Nhưng chúng ta mới chỉ là thánh hay thần linh trong tiềm năng thôi, nghĩa là có thể trở nên thánh, chứ chưa phải là thánh trong hiện thực. Nói cách khác, chúng ta chưa sống cho ra thần ra thánh, đúng với bản chất của mình. 

Khả năng nên thánh hay «nên hoàn thiện như Cha trên trời» của chúng ta (Mt 5,48 [k*]) tương tự như khả năng trở thành cây lúa của một hạt lúa. Hạt lúa không phải là cây lúa, nhưng có khả năng trở thành cây lúa. Có trở thành cây lúa hay không còn tùy thuộc nhiều điều kiện. Tính chất «thần linh» nội tại trong bản chất của chúng ta cũng tương tự như vậy: Chúng ta chưa phải là thần linh, nhưng chúng ta có thể trở thành thần linh, vì mầm thần linh đã có sẵn trong chúng ta. Nếu không có mầm thần linh ấy, thì lời khuyên của Đức Giêsu «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện» (Mt 5,48 [k*]) là một điều phi lý, ảo tưởng, không bao giờ thực hiện được, vì nó vượt ra ngoài khả năng của chúng ta. Chẳng lẽ Đức Giêsu lại khuyên chúng ta thực hiện một điều mà chúng ta không bao giờ thực hiện nổi?!

Điều tiên quyết để có thể nên thánh, sống như thánh, đó là chúng ta ý thức được bản chất của mình là thánh, là con cái Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa. Điều thứ hai còn quan trọng hơn nữa là tập sống phù hợp với bản chất thánh ấy.

Nói cách khác, chúng ta cũng giống như một viên bảo ngọc quí giá nhưng chưa được mài dũa, nghĩa là thứ «ngọc còn trong đá», nên vẫn tưởng mình là cục đá tầm thường. Nếu chỉ là cục đá tầm thường, chẳng ai có thể mài dũa nó thành ngọc quí giá được. Bản chất chúng ta vốn là ngọc, nhưng nếu ngọc chẳng được mài dũa, thì đúng là: «Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài, cũng thành vô dụng, cũng hoài ngọc đi» (Ca dao). Vậy khi biết mình bản chất là ngọc, ta phải biết tự mài dũa để trở nên ngọc vô giá.

Khám phá hay ý thức bản chất mình là thánh, đó chính là giai đoạn «tìm được kho báu» (x. Mt 13,44-46 [a*]). Bên Phật giáo có từ ngữ rất thích hợp để gọi giai đoạn này là «đốn ngộ» (tức nhanh chóng hay bỗng chốc giác ngộ được bản chất đích thực của mình). Vấn đề còn lại là «vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy» (Mt 13,44b [a*]). Nghĩa là dám sống hết mình đúng theo bản chất đích thực của mình. Phật giáo gọi giai đoạn này là «tiệm tu» (là từ từ tu tập để sống «xứng tánh», nghĩa là sống phù hợp, sống xứng với bản chất đích thực của mình).



3. Hãy sử dụng kho tàng ấy để làm cuộc đời mình tươi đẹp


Theo bài Tin Mừng (Mt 13,44-46), Nước Trời giống như người tìm được kho báu trong ruộng, bèn «vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy» (Mt 13,44b). Nay chúng ta biết chính bản thân mình là thửa ruộng ấy, nó chứa một kho tàng hết sức quí báu là «bản tính Thiên Chúa» (còn đang ở dạng tiềm ẩn). Bản tính ấy hay kho báu ấy vẫn còn chôn sâu trong lòng chúng ta, chúng ta cần đem hết sức lực để thể hiện nó ra trong đời sống của mình. Nếu người lái buôn kia phải «bán tất cả những gì mình có» (Mt 13,44b) mới mua được ruộng ấy, thì công việc thể hiện bản chất thánh của chúng ta cũng đòi hỏi chúng ta phải đem hết sức bình sinh của mình ra mới thực hiện được. Nghĩa là chúng ta phải dành tất cả mọi sự ta có để thực hiện công việc trọng đại này, không được tiếc hay để lại bất kỳ sự gì mà không dùng vào việc ấy.

Lý tưởng của mọi Kitô hữu là nên thánh, nên giống Thiên Chúa, như Đức Giêsu đã khuyến khích ta: «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện» (Mt 5,48 [k*]). Muốn thực hiện được lý tưởng đó, điều tiên quyết là ta phải ý thức bản chất của mình là hình ảnh của Thiên Chúa, được tạo dựng giống như Thiên Chúa, và đã mang trong mình bản chất của Ngài. Chính vì thế, chúng ta mới có khả năng trở nên hoàn thiện giống như Ngài. Ý thức này chính là hạt giống, là «nhân» giúp ta đạt được «quả» là sự hoàn hảo hay thánh thiện. Không ý thức như thế, mọi cố gắng của ta trở nên khó thành tựu, giống như muốn làm một viên ngọc mà lại dùng dùng gạch để mài. Hay muốn nấu cơm mà không dùng gạo, dù có đổ nước vào, có đốt lửa, có làm đủ thứ cũng không thành cơm được. Ý thức bản chất mình là thánh, là con cái Thiên Chúa là điều tối cần thiết để nên thánh, nhưng chỉ thế mà thôi, thì không đủ. Điều quan trọng kế tiếp là phải dốc toàn tâm lực để sống cho đúng bản chất thánh của chúng ta. Điều này nằm trong khả năng của chúng ta, cũng như con sư tử nai chỉ cần thực tập một thời gian là có thể trở thành sư tử thật. Đức Giêsu chính gương mẫu nên thánh của chúng ta, Ngài là vị thánh đã thành, còn chúng ta là những vị thánh đang thành. Ngài đang mời gọi chúng ta nên thánh đấy! 


(Nguyễn Chính Kết)

_________________

[a*] Mt 13,44-46 => Dụ ngôn kho báu và ngọc quý: «Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.» 

[b*] St 1,26-27 => «Thiên Chúa phán: “Chúng ta hãy làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất.” Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ.» 

[c*] St 9,6 => «Ai đổ máu con người, thì máu nó sẽ bị con người đổ ra, vì Thiên Chúa đã làm ra con người theo hình ảnh Thiên Chúa.»

[d*] Lc 20,36 => Đức Giêsu nói: «Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.» 

[e*] Ga 11,51c-52 => «Ðức Giêsu sắp phải chết thay cho dân, (52) và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.» 

[f*] Rm 8,14.16.21 => «14 Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa16 Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa21 … Có ngày chúng ta cũng sẽ được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, mà được cùng với con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang.» 

[g*] Gl 3,26 => «Nhờ đức tin, tất cả anh em đều là con cái Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô.» 

[h*] 1Ga 3,1.2.10 => «1 Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào :  Người yêu đến nỗi  cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.  Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta,  là vì thế gian đã không biết Người. 2 Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa ;  nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Kitô xuất hiện,  chúng ta sẽ nên giống như Người,  vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy. 10 Căn cứ vào điều này mà người ta phân biệt con cái Thiên Chúa với con cái ma quỷ:  phàm ai không sống công chính  thì không thuộc về Thiên Chúa;  ai không yêu thương anh em mình, thì cũng vậy.» 

[i*] 2Pr 1,4 => «Nhờ vinh quang và sức mạnh ấy, Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó, anh em được thông phần bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian.» 

[k*] Mt 5,48 => «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện.» 

Tuesday, January 17, 2017

Có gì sai khi nói Đức Giêsu là vị thánh đã thành, còn chúng ta là những vị thánh đang thành?


Có gì sai trong câu:
«Đức Giêsu là vị thánh đã thành,
còn chúng ta là những vị thánh đang thành»?


Kính Quí Vị,

Điện thư này xin gửi đến những ai đã đọc bài Chia Sẻ Tin Mừng Chúa Nhật 17 Quanh Năm (28-7-2002) của Nguyễn Chính Kết, được đăng trên Vietcatholic Network, đặc biệt những ai có thắc mắc về bài này. (*)



I. Vấn đề

Trong bài Chia Sẻ Tin Mừng Chúa Nhật 17 Thường Niên (28-7-2002), tôi có viết một đoạn sau đây: «Đức Giêsu chính là gương mẫu nên thánh của chúng ta, Ngài là vị thánh đã thành, còn chúng ta là những vị thánh đang thành. Ngài đang mời gọi chúng ta nên thánh đấy!»

Chắc chắn có nhiều người không đồng ý với tư tưởng này, và có một người đã nói lên sự bất đồng ý đó qua điện thư có nội dung như sau:

«Kính quý Cha,

«Con nghe nhiều người không đồng ý về bài suy niệm của Nguyễn Chính Kết, ngày thứ bảy 20/7/2002 (Dụ ngôn kho báu và cỏ lùng).

«Theo con, tác giả Nguyễn Chính Kết đã copy câu nói của Đức Phật Thích Ca nói với môn đệ mình "Ta là Phật đã thành, còn các con là Phật sẽ thành". Rồi tác giả so sánh Chúa là vị Thánh đã thành, còn chúng ta là vị Thánh đang thành. Điều này hoàn toàn sai, coi thường Chúa Giêsu, vì chính Ngài đã là Thiên Chúa, Ngài là Infinitive, chứ Ngài không phải qua một quá trình để trở thành Thánh, không bao giờ Finitive có thể trở thành Infinitive được cả. Thánh đã thành, tức là phải qua một quá trình không phải thánh rồi mới thành Thánh. Thứ hai Ngài là tạo hóa, có bao giờ tạo vật trở thành tạo hóa không?

«Thứ ba, lấy câu nói của một loài thụ tạo rồi áp đặt cho Thiên Chúa là không đúng, và sai với tư tưởng thần học.

«Kính Chúc qúy Cha vui mạnh. God Love You.

«NS»

Với tư cách là tác giả viết những bài Chia sẻ Tin Mừng nói trên, tôi xin chân thành cám ơn ông NS đã thẳng thắn góp ý để sửa sai, đúng với tinh thần của Đức Kitô trong Mt 18,15-17, hầu mọi người nên hoàn hảo hơn. Rất mong Ông cũng như mọi người tiếp tục sống tinh thần bác ái ấy.

Tuy nhiên, tôi cũng xin được biện hộ cho tư tưởng của mình.



II. Ngôi Hai Thiên Chúa và Đức Giêsu

Tôi không phải là một nhà thần học, nên không có đủ thẩm quyền để nói lên tiếng nói chính thức của Giáo Hội về vấn đề này. Tuy nhiên, dù chỉ có một số vốn hạn hẹp về triết lý và Kinh Thánh, tôi đã từng suy nghĩ về vấn đề này. Vậy tôi xin được trình bày ra đây thiển ý của tôi để mọi người rộng đường suy nghĩ. Tôi e rằng những suy nghĩ này vẫn còn nông cạn, nên rất mong được những bậc cao minh chỉ giáo thêm cho. Nhất là mong được những người có thẩm quyền nói lên lập trường chính thức của Giáo Hội mà tôi luôn luôn sẵn sàng đón nhận như ý kiến cuối cùng. Xin chân thành cảm tạ. 

Trên nguyên tắc, Đức Giêsu chính là Thiên Chúa, nhưng lại là một Thiên Chúa nhập thể. Như vậy giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa có sự khác biệt về hình thái hiện hữu (mode d'existence), mặc dù về yếu tính (essence) thì hoàn toàn đồng nhất. Khi nhập thể làm người, Ngôi Hai Thiên Chúa vốn vô hạn, bất biến, tuyệt đối đã biến thành một Giêsu hữu hạn, thay đổi, tương đối. Nếu không có sự biến đổi về hình thái hiện hữu như thế thì không còn là nhập thể nữa..

Nói một cách quảng diễn hơn, thì xét về yếu tính, Đức Giêsu là Thiên Chúa, hoàn toàn đồng nhất với Thiên Chúa, nói cách khác, Thiên Chúa và Đức Giêsu là một. Nhưng xét về hình thái hiện hữu, thì Đức Giêsu là Thiên-Chúa-làm-người, với hai bản tính – vừa là Thiên Chúa vừa là người – chứ không chỉ là Thiên Chúa thuần nhất với một bản tính là bản tính Thiên Chúa. Như vậy, Ngài khác với Thiên Chúa, hay Thiên Chúa và Đức Giêsu là hai. Xét về hình thái hiện hữu thì Thiên Chúa là vô hạn, bất biến, tuyệt đối, còn Đức Giêsu – xét theo bản tính con người – là hữu hạn, thay đổi, tương đối. 

Tương tự như xét về yếu tính thì tôi lúc nhỏ và tôi bây giờ là một, nhưng xét về những yếu tố khác như cách thức hiện hữu, khả năng, tính tình, thì tôi lúc nhỏ và tôi bây giờ là hai dạng khác nhau. .

Khi Thiên Chúa nhập thể thành con người, thì Ngài trở thành bị giới hạn. Sự việc này phần nào giống như một nhà bác học nọ, khi ở trong phòng thí nghiệm của ông với đầy đủ mọi máy móc tân kỳ, mọi chất liệu thượng hảo hạng, thì ông có thể chế tạo ra bất cứ chất nào có trên trần gian này. Nhưng khi ông đến chơi nhà một người học trò có một phòng thí nghiệm đơn sơ nghèo nàn, thì tại đó, ông chỉ có thể chế tạo được một số chất nào đó thôi, với một độ tinh khiết cũng rất giới hạn. Tài năng của ông vẫn y nguyên, nhưng điều kiện để thể hiện khả năng ấy đã thay đổi, nên kết quả cũng thay đổi. Khả năng chế tạo của ông tại nhà người học trò bị giới hạn vì bị lệ thuộc vào những điều kiện quá hạn chế.

Để nói về những giới hạn của một vị Thiên Chúa vô hạn, nhưng lại nhập thể làm con người hữu hạn, thánh Phaolô viết:

– Ngài «mang thân phận yếu hèn» (2Cr 13,4; x. 1Tm 3,16), nhưng Thiên Chúa thì đâu có yếu hèn!

– «Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện» (Dt 2,17). Ngoại trừ tội lỗi ra, Ngài giống như tất cả mọi người về mọi phương diện, kể cả việc chịu ma quỉ cám dỗ.

– «Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội» (Dt 4,15);

– Thậm chí Phaolô còn nói mạnh bạo hơn câu nói của tôi rất nhiều: «vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy» (Dt 5,3). «Dâng lễ đền tội cho chính mình» có hàm ý Ngài cũng có tội chăng?

Như vậy, xét về bản chất thì Thiên Chúa và Đức Giêsu là một. Nhưng xét về cách hiện hữu thì Thiên Chúa và Đức Giêsu là hai, nghĩa là cách hiện hữu của Ngôi Hai Thiên Chúa và của Ngôi Hai Nhập Thể có những điểm khác nhau. Tương tự như: xét về bản chất thì tôi lúc nhỏtôi bây giờ chỉ là một, nhưng xét về những yếu tố khác như cách hiện hữu, khả năng, tính tình, thì tôi lúc nhỏ và tôi bây giờ là hai. 

Trong bài chia sẻ Tin Mừng nói trên, tôi nói về Đức Giêsu chứ không nói về Thiên Chúa: «Đức Giêsu chính là gương mẫu nên thánh của chúng ta, Ngài là vị thánh đã thành, còn chúng ta là những vị thánh đang thành». Nói về Thiên Chúa như vậy thì quả là một sai lầm nghiêm trọng, nhưng ở đây, tôi nói về Đức Giêsu, với cách hiện hữu đầy giới hạn của một con người đích thực!

Tôi thiết tưởng Đức Giêsu phải tập luyện bản thân để nên hoàn hảo hơn, chứ không phải sự hoàn hảo của Ngài là có sẵn. Những câu sau đây của Phaolô chứng tỏ điều đó:

– «Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục» (Dt 5,8). Như vậy nếu không trải qua đau khổ, Ngài đâu học được đức vâng phục!

– «Thiên Chúa (…) đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ» (Dt 2,10 ). Rõ ràng là Ngài «trở thành» chứ không phải Ngài bẩm sinh vốn là một vị lãnh đạo thập toàn.

– «Khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người» (Dt 5,9). Ngay cả việc cứu độ, rõ ràng theo Phaolô, Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ, chứ không phải vốn là nguồn ơn cứu độ.

Qua những câu Kinh Thánh trên, tôi nghĩ Ngài cũng như chúng ta, phải cố gắng lắm, phải «trầy da tróc vẩy» mới nên hoàn hảo, mới nên thánh đúng với bản chất của mình. Ngài chỉ khác với chúng ta ở chỗ Ngài đã cố gắng hơn chúng ta gấp bội, nên Ngài không bao giờ bị thất bại, nghĩa là không bao giờ rơi vào tình trạng tội lỗi mà thôi! 

Có nghĩ như thế ta mới thấy thương Ngài vô cùng, và được yên ủi biết bao khi ta phải cố gắng đến «trầy da tróc vẩy» để nên thánh! Còn nếu Ngài đã là thánh từ bẩm sinh, chẳng cần phải cố gắng chút nào cả, thì tôi sẽ có cớ để lười lĩnh: làm sao tôi bắt chước Ngài nổi? Ngài vốn đã là thánh, còn tôi là người phàm mà! Làm sao tôi nên thánh giống Ngài được!?

Nhưng chính Ngài đã khuyên chúng ta: «Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Ðấng hoàn thiện» (Mt 5,48). Không biết Đức Giêsu có nói quá không khi dùng cùng một chữ «hoàn thiện» để áp dụng cho cả Thiên Chúa Cha lẫn chúng ta! Nhất là lại có chữ «như» giữa hai vế!

Xin đưa ra một minh họa què quặt để tạm lý giải: Quả là phi lý nếu có ai là người mà lại mời gọi con chó trở nên người giống như mình! Nhưng nếu có một con chó y hệt những con chó khác nhưng nhờ khổ công tu luyện mà thành người, thì sau khi thành người, «con người gốc chó» ấy mới có tư cách để mời gọi mọi con chó khác cố gắng tu luyện thành người chứ!

Nếu nói rằng Ngài không trở thành thánh, thành hoàn hảo, vì Ngài vốn đã là thánh, là hoàn hảo rồi, không cần luyện tập gì cả, tôi nghĩ rằng nói như thế mới là sai thần học, đặc biệt thần học của Phaolô.

Khi làm thần học, rất nhiều người không phân biệt Ngôi Hai Thiên Chúa và Đức Giêsu, nên sinh ra nhiều hệ luận thần học sai lầm. Họ hoàn toàn đồng hóa hai «Đấng» ấy là một. Nói chính xác thì hai Ngài là một xét về bản chất, nhưng là hai xét về cách hiện hữu. Thiết tưởng câu thơ Việt Nam

«Mình với ta tuy hai mà một, 
 «Ta với mình tuy một mà hai»

có thể áp dụng rất đúng cho trường hợp này.

***

Rất mong được những bậc cao minh trao đổi và nếu tôi sai thì sửa sai cho tôi. Tôi thiết nghĩ những tư tưởng trong các bài Chia sẻ Tin Mừng của tôi chắc chắn không thể tránh được những sai sót về mặt thần học. Rất mong những người đọc tôi khi thấy tôi sai sót chỗ nào thì cứ mạnh dạn nói lên như ông NS, để tôi có dịp mà trình bày lập trường của mình. 

Một lần nữa xin chân thành cám ơn ông NS, nhờ Ông nêu lên vấn đề mà vấn đề trở nên sáng tỏ. Rất mong nhận được ý kiến của Ông và mọi người về cách lý giải của tôi.

Kính

Nguyễn chính Kết
(nguyenchinh2007@gmail.com)

_______________


(*) Bài này hiện còn được lưu lại trong trang:  http://www.simonhoadalat.com/Suyniem/chunhat/NamA/CN17QN-Ket.htm chia sẻ về bài Tin Mừng Mt 13,44-46 về "Dụ ngôn kho báu và ngọc quý". Và được post lại trong trang: http://chiasethanhuu.blogspot.com/2017/01/tan-dung-ban-chat-thanh-de-nen-thanh.html